Phỏng
vấn nhà văn Trịnh
Thanh Thủy về Văn Học Miền Nam 1954 – 1975
Kalynh
Ngô/Người Việt (thực hiện)
22.11.2014
.
LTS:
Vào hai ngày, 6 và 7 Tháng Mười Hai, sắp tới, hội thảo
Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam (1954-1975) sẽ được tổ
chức tại nhật báo Người Việt và nhật báo Việt Báo
ở Westminster. Gần 20 nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình và
nghiên cứu văn học tại Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Úc sẽ
trình bày và phân tích những đặc điểm, thành tựu và
ảnh hưởng của văn học miền Nam Việt Nam thời kỳ
1954-1975. Ban tổ chức gồm nhật báo Người Việt, nhật
báo Việt Báo, báo mạng Tiền Vệ và báo mạng Da Mầu.
Nhân dịp này, nhà văn Trịnh Thanh Thủy đã dành cho
phóng viên Kalynh Ngô của Người Việt cuộc phỏng vấn
sau đây.
.
Nhà
văn Trịnh Thanh Thủy. (Hình: Bạch Khỏe)
.
Kalynh
Ngô (NV): Có
ý kiến cho rằng, số người cầm bút ở miền Nam Việt
Nam sau năm 1954 nhiều hơn so với thời tiền chiến, và
ngược lại thì số độc giả của mỗi tác phẩm thì
[trong Nam thời kỳ đó] lại ít hơn [ngoài Bắc thời tiền
chiến]; nếu nhận định nói trên có phần nào đúng thì
theo chị, vì sao có hiện tượng này?
Nhà
văn Trịnh Thanh Thủy:
Hiện
tượng người đọc sách giảm đi ngày nay có thể đã
bắt đầu có từ xưa. Tôi tin có chuyện đó xảy ra.
Chúng ta không có một thống kê hay khảo sát nào chứng
minh được điều này nên mọi con số đưa ra chỉ có
tính cách tương đối vì không thể dựa trên một cơ sở
nhất định nào.
Nhà Văn Võ Phiến cũng đã tìm cách lượng định con số độc giả trong cuốn “Văn học Miền Nam: Tổng Quan”. Ông đưa ra một nhận định “Số tác giả sau 54 ở Miền Nam vượt cao hơn hồi tiền chiến toàn quốc rất xa, trong khi số độc giả dành cho mỗi tác phẩm thì không thấy tăng.” Ông đã căn cứ trên số lượng tác phẩm in ấn trước và sau năm 1954 để đo lường số lượng độc giả của hai thời kỳ văn học. Nếu tính theo số sách được in trên mỗi tác phẩm (hàng ngàn) cho toàn quốc trước 1954 mà Nguyễn Vỹ đưa ra trong cuốn “Văn thi sĩ tiền chiến” để so sánh với số sách được ấn hành và tiêu thụ trên mỗi tác phẩm (cũng con số ngàn) trong miền nam sau 1954. Người ta sẽ có cảm giác số người viết tăng và số người đọc giảm.
Theo tôi, con số Nguyễn Vỹ đưa ra chưa chắc đúng mà Võ Phiến cũng không có một tài liệu nào khả dĩ đáng tin cậy dựa vào để so sánh cho chuẩn xác. Tuy nhiên theo một nhận xét của ông chủ nhà sách Khai Trí, người đã sống và hành nghề qua nhiều chế độ và giai đoạn lịch sử thì “Quả là sau này người ta mua sách ít hơn thời tiền chiến”. Hiện tượng người đọc giảm đi có lẽ vì chiến tranh, loạn lạc, cuộc sống khó khăn, con người lo miếng ăn còn chưa xong, còn thì giờ và tiền bạc đâu lo cho món ăn tinh thần. Thứ đến vì lý do chính trị. Mua sách, chứa sách có khi còn mang hoạ vào thân vì sách là tư tưởng, sự khôn ngoan, đạo đức, hay lý luận của học thuyết, rất dễ bị quy kết hay chụp mũ.
Sau năm 1954, sống trong vùng quốc gia mà chứa sách cộng sản là gặp rắc rối, và ngược lại. Ngoài ra, sách không còn là món ăn tinh thần độc nhất. Thập niên 70 khi tôi bắt đầu lớn lên, truyền thanh, truyền hình, phim ảnh đã manh nha chiếm lĩnh vị thế ưu tiên của sách vở. Thế hệ chúng tôi phần lớn được đọc và biết đến các tác phẩm văn học từ các sách giáo khoa trong giáo trình của bậc Trung học. Trong phần Cổ văn (thơ), chúng tôi được học Kiều, Chinh phụ ngâm khúc hay các thi sĩ thời tiền chiến. Phần Kim văn (văn) cũng vậy, các nhà văn thời tiền chiến được nhắc nhở luôn, nhất là các tác giả của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Do đó trong giới học sinh chúng tôi ai cũng biết đến các văn thi sĩ thời tiền chiến, còn các tác giả và các tác phẩm hiện đại có lẽ chỉ có những người thích văn thơ tìm đọc thêm. Vả lại học sinh làm gì có tiền mua sách. Số sách của các tác giả trong thập niên 70 có ít đi, tôi nghĩ là điều đương nhiên. Hơn nữa số người đọc sách dịch, tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung và tiểu thuyết diễm tình của Quỳnh Dao là một lực lượng đông đảo, ắt hẳn đánh bạt cả số sách in của các tác giả văn học miền Nam thời ấy.
Nhà Văn Võ Phiến cũng đã tìm cách lượng định con số độc giả trong cuốn “Văn học Miền Nam: Tổng Quan”. Ông đưa ra một nhận định “Số tác giả sau 54 ở Miền Nam vượt cao hơn hồi tiền chiến toàn quốc rất xa, trong khi số độc giả dành cho mỗi tác phẩm thì không thấy tăng.” Ông đã căn cứ trên số lượng tác phẩm in ấn trước và sau năm 1954 để đo lường số lượng độc giả của hai thời kỳ văn học. Nếu tính theo số sách được in trên mỗi tác phẩm (hàng ngàn) cho toàn quốc trước 1954 mà Nguyễn Vỹ đưa ra trong cuốn “Văn thi sĩ tiền chiến” để so sánh với số sách được ấn hành và tiêu thụ trên mỗi tác phẩm (cũng con số ngàn) trong miền nam sau 1954. Người ta sẽ có cảm giác số người viết tăng và số người đọc giảm.
Theo tôi, con số Nguyễn Vỹ đưa ra chưa chắc đúng mà Võ Phiến cũng không có một tài liệu nào khả dĩ đáng tin cậy dựa vào để so sánh cho chuẩn xác. Tuy nhiên theo một nhận xét của ông chủ nhà sách Khai Trí, người đã sống và hành nghề qua nhiều chế độ và giai đoạn lịch sử thì “Quả là sau này người ta mua sách ít hơn thời tiền chiến”. Hiện tượng người đọc giảm đi có lẽ vì chiến tranh, loạn lạc, cuộc sống khó khăn, con người lo miếng ăn còn chưa xong, còn thì giờ và tiền bạc đâu lo cho món ăn tinh thần. Thứ đến vì lý do chính trị. Mua sách, chứa sách có khi còn mang hoạ vào thân vì sách là tư tưởng, sự khôn ngoan, đạo đức, hay lý luận của học thuyết, rất dễ bị quy kết hay chụp mũ.
Sau năm 1954, sống trong vùng quốc gia mà chứa sách cộng sản là gặp rắc rối, và ngược lại. Ngoài ra, sách không còn là món ăn tinh thần độc nhất. Thập niên 70 khi tôi bắt đầu lớn lên, truyền thanh, truyền hình, phim ảnh đã manh nha chiếm lĩnh vị thế ưu tiên của sách vở. Thế hệ chúng tôi phần lớn được đọc và biết đến các tác phẩm văn học từ các sách giáo khoa trong giáo trình của bậc Trung học. Trong phần Cổ văn (thơ), chúng tôi được học Kiều, Chinh phụ ngâm khúc hay các thi sĩ thời tiền chiến. Phần Kim văn (văn) cũng vậy, các nhà văn thời tiền chiến được nhắc nhở luôn, nhất là các tác giả của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Do đó trong giới học sinh chúng tôi ai cũng biết đến các văn thi sĩ thời tiền chiến, còn các tác giả và các tác phẩm hiện đại có lẽ chỉ có những người thích văn thơ tìm đọc thêm. Vả lại học sinh làm gì có tiền mua sách. Số sách của các tác giả trong thập niên 70 có ít đi, tôi nghĩ là điều đương nhiên. Hơn nữa số người đọc sách dịch, tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung và tiểu thuyết diễm tình của Quỳnh Dao là một lực lượng đông đảo, ắt hẳn đánh bạt cả số sách in của các tác giả văn học miền Nam thời ấy.
.
NV:
Thời
kỳ 54-75 là mang nét "đặc biệt" đối với văn
sử Việt Nam, khi một nửa nền văn học Việt Nam di
chuyển từ Bắc vào Nam. Đó vừa là giai đoạn khốc liệt
nhất của chiến tranh, cũng vừa đánh dấu cuộc di cư
Bắc Nam sau hiệp định Genève. Việc đổi vùng đất sống
này của giới cầm bút ngoài Bắc khi tiếp xúc với văn
giới miền Nam, vô hình trung ảnh hưởng rất lớn đến
sáng tác của họ. Vậy theo chị, văn học miền Nam giai
đoạn 54-75 có những thay đổi nổi bật nào cần nói
tới? Chị có thể kể ra vài tác giả, tác phẩm gắn
liền với những thay đổi đó?
Nhà
văn Trịnh Thanh Thủy: Nhắc
đến cuộc di cư 1954 sau hiệp định Genève của hơn một
triệu người miền Bắc vào Nam là nhắc tới một sự
thay đổi vĩ đại của bộ mặt miền Nam thời ấy. Những
ngôi giáo đường bắt đầu mọc lên như nấm. Các cô,
các bà Bắc Kỳ di cư răng đen, khăn vuông mỏ quạ, bôn
ba khăn gói đi về, những vùng Phú Nhuận, Bà Chiểu, Biên
hoà, Hố Nai, Gia Kiệm làm người dân Nam kỳ trố mắt
ngạc nhiên. Sự hiện diện đột ngột với những phong
tục, tập quán, tiếng nói là lạ của họ làm náo loạn
nếp sống an nhàn, xuề xoà của miền đồng bằng Nam Bộ.
Họ mang cả những sắc thái cá biệt cùng các từ ngữ
địa phương của những con người văn nghệ sĩ đất Hà
Thành reo rắc xuống miền phù sa sông Cửu Long.
Từ đó họ mang hơi hướm văn hoá đất Bắc phả vào đất Nam và ngược lại. Điển hình là Đông Hồ ở mãi tận đất Hà Tiên xa xôi mà ông viết văn theo giọng Bắc. Ngược lại, Bình Nguyên Lộc viết văn giọng Nam nhưng cung cách lại ảnh hưởng miền Bắc vì có sự pha trộn văn hoá Bắc Nam từ trong tâm thức. Còn Sơn Nam, Lê Xuyên lớn lên trong thời thịnh mãn của văn học tiền chiến, thấm nhuần thơ văn Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính, nhưng mang cái hơi Nam rõ rệt hơn. Vương Hồng Sển, Hồ Biểu Chánh thì Nam rặt. Và rồi những nội dung trong tác phẩm các nhà văn miền Bắc di cư đã tràn ngập hình ảnh, con người và đất nước miền Nam như Phạm Việt Tuyền về văn học Đàng Trong, Nguyễn Văn Xuân về lưu dân vào Nam, Vũ Bằng với “Miếng lạ miền Nam”. Và còn biết bao điều để nói của miền Nam dàn trải ra trong thế giới tiểu thuyết của Văn Quang, Thanh Nam, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, thật là khắp cùng. Giới sáng tác Miền Nam bắt đầu biết yêu ngôi giáo đường, người con gái ngoan hiền xứ đạo đến nỗi thơ ca ra đời như một lời tình tự thố lộ từ con tim. Kiên Giang Hà Huy Hà đã làm rung động tâm hồn biết bao nhiêu độc giả với bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” như một gắn kết duyên tình đằm thắm của trai Nam gái Bắc. Còn biết bao cô Bắc Kỳ nho nhỏ làm chảy sáp trái tim mềm yếu người con trai Nam Kỳ nhuốm mộng tương tự. Nguyễn Tất Nhiên đã làm nên sự nghiệp thi ca của mình với “một đôi mắt tròn đen như búp bê” vì “cô đã nhìn anh rất … Bắc Kỳ”.
.
Từ đó họ mang hơi hướm văn hoá đất Bắc phả vào đất Nam và ngược lại. Điển hình là Đông Hồ ở mãi tận đất Hà Tiên xa xôi mà ông viết văn theo giọng Bắc. Ngược lại, Bình Nguyên Lộc viết văn giọng Nam nhưng cung cách lại ảnh hưởng miền Bắc vì có sự pha trộn văn hoá Bắc Nam từ trong tâm thức. Còn Sơn Nam, Lê Xuyên lớn lên trong thời thịnh mãn của văn học tiền chiến, thấm nhuần thơ văn Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính, nhưng mang cái hơi Nam rõ rệt hơn. Vương Hồng Sển, Hồ Biểu Chánh thì Nam rặt. Và rồi những nội dung trong tác phẩm các nhà văn miền Bắc di cư đã tràn ngập hình ảnh, con người và đất nước miền Nam như Phạm Việt Tuyền về văn học Đàng Trong, Nguyễn Văn Xuân về lưu dân vào Nam, Vũ Bằng với “Miếng lạ miền Nam”. Và còn biết bao điều để nói của miền Nam dàn trải ra trong thế giới tiểu thuyết của Văn Quang, Thanh Nam, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, thật là khắp cùng. Giới sáng tác Miền Nam bắt đầu biết yêu ngôi giáo đường, người con gái ngoan hiền xứ đạo đến nỗi thơ ca ra đời như một lời tình tự thố lộ từ con tim. Kiên Giang Hà Huy Hà đã làm rung động tâm hồn biết bao nhiêu độc giả với bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” như một gắn kết duyên tình đằm thắm của trai Nam gái Bắc. Còn biết bao cô Bắc Kỳ nho nhỏ làm chảy sáp trái tim mềm yếu người con trai Nam Kỳ nhuốm mộng tương tự. Nguyễn Tất Nhiên đã làm nên sự nghiệp thi ca của mình với “một đôi mắt tròn đen như búp bê” vì “cô đã nhìn anh rất … Bắc Kỳ”.
.
NV:
Như
thế, có nghĩa là trong giai đoạn 54-75, giới văn nghệ sĩ
hai miền ảnh hưởng lẫn nhau, thưa chị?
Nhà
văn Trịnh Thanh Thủy: Sự
giao thoa của văn học hai miền càng khiến cá tính của
văn học miền Nam khởi sắc và lộ rõ. Trước kia, người
ta quen thuộc với lối viết trong sáng giản dị của các
tác giả Tự Lực Văn Đoàn như Khái Hưng Nhất Linh thời
tiền chiến. Hay kiểu cọ cầu kỳ của Nguyễn Tuân. Hoặc
phóng khoáng huê dạng như của Hoàng Hải Thủy, Vũ Bằng.
Sau này lối viết của các tác giả trong Nam là lối viết
độc đáo, thoát hẳn sự đắn đo, trau chuốt. Nó làm
trẻ lại ngôn ngữ văn chương của dân tộc. Đây cũng
là thời gian cực thịnh của văn học miền Nam. Nền văn
học Miền Nam bắt đầu tưng bừng với sự xuất hiện
một loạt văn nghệ sĩ mới như: Doãn Quốc Sỹ, Võ
Phiến, Mai Thảo, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Mạnh
Côn, Hiếu Chân, Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Nhã Ca, Trần
Dạ Từ, Viên Linh, Duy Lam, Thế Uyên, Duyên Anh, Nguyễn
Đình Toàn v.v…
.NV:
Nếu nói rằng "các văn nghệ sĩ của nền văn học
miền Nam giai đoạn 54-75 đều mang tâm trạng vừa hoài
niệm đất Bắc, vừa háo hức khám phá vùng đất mới
trong Nam”, thì thể hiện rõ nhất của họ là gì?
Nhà
văn Trịnh Thanh Thủy: Đối
với các văn nghệ sĩ, tác phẩm là đứa con tinh thần
của họ, dĩ nhiên sự thể hiện những tư duy, khao khát,
háo hức cũng như hoài niệm sẽ được tìm thấy trong
các tác phẩm của họ. Rời bỏ một quá khứ, lìa xa nơi
chôn nhau, cắt rốn, làm thân lữ hành trên phần đất
mới quê hương, có ai không khỏi thương nhớ phần đất
kia của dĩ vãng, của đất nước. Mai Thảo với “Đêm
Giã Từ Hà Nội” đã nói về, viết lại, cái đêm giã
từ Hà Nội ấy như một ra đi, một lên đường dứt
khoát và bất khả kháng. Thế mà, sau này tiếng gọi quê
hương vẫn cứ hoài vọng, khiến tâm thức “nhớ quê”
cứ ray rứt khôn nguôi nên các đứa con “sinh Bắc, đẻ
Nam” cứ liên tục ra đời. Những “Tháng Giêng cỏ non,
Mưa núi, Căn nhà vùng nước mặn, Chuyến tàu trên sông
Hồng” là những minh chứng hùng hồn.
Trong khi Vũ Bằng thì thắm thiết hơn trong nỗi nhớ Hà Nội. Những bài viết ngắn, viết dài với văn phong trữ tình, đậm chất thơ của ông về đất Bắc đã làm xúc động, chao đảo bao nhiêu con tim hoài cố hương. “Thương nhớ mười hai” mang một niềm yêu, nỗi nhớ dường như là tuyệt vọng, gởi về người vợ hiền còn kẹt lại phía bên kia vỹ tuyến. Mười hai tháng trong một năm tròn thương tiếc những món ngon, thời gian, không gian, nơi chốn, vời vợi ngàn trùng, không ngớt quay về. Ông viết hồi ký “Miếng ngon Hà Nội” nhưng không quên viết thêm “Miếng lạ miền Nam” để xác định một thái độ hoà nhập và tan loãng vào nếp sống văn hoá đất Sài Gòn.
Trong khi Vũ Bằng thì thắm thiết hơn trong nỗi nhớ Hà Nội. Những bài viết ngắn, viết dài với văn phong trữ tình, đậm chất thơ của ông về đất Bắc đã làm xúc động, chao đảo bao nhiêu con tim hoài cố hương. “Thương nhớ mười hai” mang một niềm yêu, nỗi nhớ dường như là tuyệt vọng, gởi về người vợ hiền còn kẹt lại phía bên kia vỹ tuyến. Mười hai tháng trong một năm tròn thương tiếc những món ngon, thời gian, không gian, nơi chốn, vời vợi ngàn trùng, không ngớt quay về. Ông viết hồi ký “Miếng ngon Hà Nội” nhưng không quên viết thêm “Miếng lạ miền Nam” để xác định một thái độ hoà nhập và tan loãng vào nếp sống văn hoá đất Sài Gòn.
Còn
những thi nhân thì sao? Vũ Hoàng Chương ra vào chốn “Gác
Mây” của ông ở Phú Nhuận mà trĩu nặng những tâm sự
u uẩn “Xa Cố-Đô, vắng cố nhân” rồi “Gió Nam lại
nức mùi hương trêu người”. Tập thơ Hoa Đăng xuất
bản năm 1959 đã cuồn cuộn nhớ thương trong những bài
“Chia tay, Xa gửi người xưa, Nhớ Thăng Long..v..v” .
Đinh Hùng cũng nhớ Hà Nội, thương Tây Hồ, Yên Phụ
trong cảm hứng trùng trùng. “Ta dạo thuyền đây – ai
nhớ lại/Đình hoa Yên Phụ, sóng Tây-Hồ?” (Sóng Tây Hồ
trong Đường vào tình sử ,1961)
Trong giới biên khảo, chúng ta có Toan Ánh, một tác giả chuyên công nghiên cứu về văn hóa truyền thống của Việt Nam từ nông thôn đến thành thị, từ Bắc vào Nam. Ông đã không quên cho ra đời một đứa con mang dòng máu Bắc đó là “Bó hoa Bắc Việt (1958)”.
Hoài hương là một ý niệm, một cội nguồn bất tận cho những cây bút, những dòng mực muôn màu bất tận tuôn chảy. Còn biết bao tác phẩm hoài niệm mà tôi ước ao được nhắc tới.
Trong giới biên khảo, chúng ta có Toan Ánh, một tác giả chuyên công nghiên cứu về văn hóa truyền thống của Việt Nam từ nông thôn đến thành thị, từ Bắc vào Nam. Ông đã không quên cho ra đời một đứa con mang dòng máu Bắc đó là “Bó hoa Bắc Việt (1958)”.
Hoài hương là một ý niệm, một cội nguồn bất tận cho những cây bút, những dòng mực muôn màu bất tận tuôn chảy. Còn biết bao tác phẩm hoài niệm mà tôi ước ao được nhắc tới.
.
NV:
Cảm
ơn nhà văn Trịnh Thanh Thủy đã trả lời phỏng vấn của
nhật báo Người Việt.
No comments:
Post a Comment