Friday, October 22, 2010

BLOG ANH BA SÀI GÒN

Phan Thanh Hải
Đăng ngày 22/10/2010 lúc 02:01:57 EDT

LTS: Mãn hạn tù vào ngày 19/10/2010, thế nhưng blogger Điếu Cày vẫn chưa được thả và vẫn còn bị tiếp tục giam cầm trái pháp luật. Trước đó một ngày, vào khoảng 10h30 tối ngày 18/10/2010, công an đã khám xét nhà blogger Anh Ba Sài Gòn, tức luật sư Phan Thanh Hải, và đã bắt giam anh ngay sau đó.

Hành động ngang ngược trái pháp luật của chính quyền cộng sản Việt Nam chứng tỏ sự bối rối và bất lực. Họ muốn đe doạ, trấn áp và dập tắt ngọn lửa đang âm ỉ chờ đợi dịp bùng phát của các tiếng nói phản kháng cương trực của các blogger. Thế nhưng họ đã lầm, chính những hành động này sẽ nung nấu và góp thêm lửa cho các blogger, và như chúng ta đã thấy càng ngày càng có thêm nhiều hơn những tiếng nói trung thực cùng đồng hành trên con đường dân chủ hóa cho đất nước.

Góp phần toả sáng những tiếng nói đòi hỏi nền dân chủ đa nguyên đích thực cho đất nước Việt nam, Thông Luận xin giới thiệu lại cùng bạn đọc hai bài viết tiêu biểu của blogger Anh Ba Sài Gòn.

-------------------------

I. "Kẽ hở Pháp Luật"
một thuật ngữ thiếu chính xác về pháp lý
Phan Thanh Hải

Cụm từ "kẽ hở Pháp Luật" phát sinh từ giới nhà báo, có lẽ được khoảng gần hai chục năm nay. Cũng có thể thoạt tiên là do giới lãnh đạo dùng, sau đó các nhà báo "hiểu ý" rồi yên tâm đem ra dùng lại trên báo chí và khiến nó phổ biến đến mức trở thành một "thuật ngữ báo chí", tuy nhiên chưa bao giờ một hệ thống pháp luật đúng nghĩa lại chấp nhận khái niệm này.
Ngoài giới nhà báo còn rất nhiều trí thức, đặc biệt là các chính trị gia, các đại biểu Quốc hội và ngay cả giới Luật sư cũng dùng nó một cách rất tự nhiên.
Khái niệm "kẽ hở pháp luật" nhằm ngụ ý đến những tình thế mà Pháp luật chưa quy định cụ thể khiến ai hiểu sao cũng được, trong đó một bên tinh ranh hơn đã áp dụng nó theo hướng có lợi cho mình bất kể thiệt hại cho nhà nước hay cho người khác (cũng có khi không ai bị thiệt hại cả). Nếu đem Luật thực định áp dụng vào tình huống đó thì "không xử" được kẻ tinh ranh nọ bởi vì anh ta đã "lách luật" thành công.
Một bài báo kể rằng "Ở quận Tân Bình, Tân Phú, chủ hộ chỉ có diện tích nhà ở khoảng 30m2 và 80m2… mà bảo lãnh cho 20-30 người vào nhà mình!?. Chính kẽ hở của Luật Cư Trú đang tạo thành dòng chảy cho người dân từ các tỉnh đổ xô về TP gây bùng nổ tăng dân số cơ học". Có thể hiểu ý của bài báo rằng chủ nhà đã lợi dụng "kẽ hở Pháp luật" ở chỗ không giới hạn số người mà chủ nhà được phép bảo lãnh, căn nguyên là do Luật quy định thiếu cụ thể.
Một bài báo khác cũng đặt tựa là “Không đưa dự án bô-xít ra Quốc hội là lách luật”.
Mới đây Thời báo Kinh Tế Sài Gòn đưa tin rằng “Các ngân hàng ngoại kiếm lãi gấp hơn 8 lần so với những ngân hàng nội phần nhiều là nhờ chiêu thức mua bán ngoại tệ lòng vòng, lách luật”.
Nói chung không thể kể ra hết những tình huống "lách luật" mà báo chí hiện nay đang dùng.
Tất nhiên tôi không nêu ra các ví dụ này để phân giải hay khẳng định việc một chủ nhà đã bảo lãnh cho 20-30 người nhập hộ khẩu là sai hay đúng, việc “không đưa dự án Bô xít ra Quốc hội” thì có vi phạm Pháp luật hay không, hoặc việc mua bán ngoại tệ lòng vòng là tốt hay xấu… Vấn đề tôi muốn nói đến là cách hiểu và cách dùng từ "kẽ hở Pháp Luật" và "lách luật".
Kiểu nhận định rằng ai đó lách luật là lối nói mơ hồ, khiến người đó bị treo lơ lửng giữa tình thế không biết có vi phạm hay không. Lẽ ra nếu người viết chưa có thái độ dứt khoát thì có thể nói rằng “có dấu hiệu vi phạm” hoặc nói rằng “có khả năng vi phạm”, tuy nhiên việc dùng chữ lách luật là không ổn về lô gích Pháp lý.
Thực ra trong Pháp Luật không có chỗ nào là kẽ hở cả. Pháp Luật là nơi phân định lẽ công bằng, nó chỉ có một lằn ranh ở giữa, lằn ranh đó chia ra làm 2 miền, một bên là cấm đoán, một bên là cho phép. Một hành vi một tình huống chỉ có thể hoặc đúng Luật hoặc sai Luật, hoặc vi phạm hoặc không vi phạm, hoặc có tội hoặc vô tội... mà thôi. Ví dụ như lằn vạch kẻ đôi phân ranh đường hai chiều, bánh xe chạm vào đó tức là vi phạm mà chưa chạm vào thì chưa vi phạm, chỉ có 2 khả năng đó, không có sự lưng chừng nửa đúng nửa sai.

Xét về góc độ lập pháp
Hệ thống Pháp Luật Việt Nam ban cho Quốc hội thẩm quyền lập pháp và cho chính phủ thẩm quyền lập quy, điều đó khẳng định rằng các cơ quan này có nghĩa vụ phải lập pháp và lập quy. Bất cứ một hành vi nào xảy ra trong xã hội cũng phải được Pháp Luật điều chỉnh và đều có cách phân xử, các cơ quan làm luật không thể biện bạch rằng vì quá bận bịu, vì thiếu người, vì lý này do nọ ... nên khi chuyện xảy đến thì không biết đúng biết sai vì chưa có Luật, chưa kịp làm Luật.
Phải hiểu rằng tất cả những gì nhà nước chưa (hoặc chưa kịp) quy định cấm thì người dân đều được phép làm, đó là một nguyên tắc từ suy lý. Chỗ mà Pháp Luật không buộc tội, không cấm thì dứt khoát không phải là vi phạm và không thể gọi đó là kẽ hở, là lách luật.
Pháp Luật cũng là một công cụ hạn chế quyền lực của nhà nước, một khi Pháp Luật chưa ban quyền thì dứt khoát cơ quan nhà nước chưa thể thực hành quyền ấy. Phát biểu một cách khác rằng "cơ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì Pháp Luật đã quy định". Mọi hành động của cơ quan nhà nước vượt quá quyền hạn đã được Pháp Luật ban cho đều là sai trái và lạm quyền.
Trong Pháp Luật có một số quy phạm có tính chất tùy nghi, ví dụ như “cơ quan nhà nước phải cấp giấy phép trong vòng 30 ngày”. Thực tế áp dụng Pháp Luật thì có người được cấp giấy phép chỉ trong một vài ngày, nhưng nhiều người khác thì đến đúng 30 ngày mới có giấy phép. Như vậy thì khoảng tùy nghi 30 ngày này có phải là kẽ hở không?
Tôi cho rằng đây cũng không thể gọi là kẽ hở, bởi sự bình đẳng và công bằng luôn luôn là nguyên lý và thuộc tính của Pháp Luật. Vì thế hành động cấp phép thiếu công bằng về thời gian, đối xử bất bình đẳng chính là một biểu hiện của hành vi trái Luật, có tư ý hoặc thiếu sót của công chức hoặc lãnh đạo. Người bị đối xử bất bình đẳng, thiếu công bằng có thể khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện ra tòa.
Chúng ta có thể thấy Pháp Luật tràn ngập mọi kẽ mọi ngách của đời sống và mọi người có tự do hành xử cho đến khi chạm đến giới hạn, đó là những điều cấm đoán và chạm đến sự tự do của người khác. Có một lằn ranh ở giữa để phân biệt đúng hay sai, có vi phạm hay không, đó là Pháp Luật và cũng là lẽ công bằng.
Tóm lại khi xét trên nguyên lý "công dân được làm tất cả những gì Pháp Luật không cấm" và "cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì Pháp Luật cho phép", thì không thể định ra những vùng thuộc về kẻ hở hay phần lưng chừng của Pháp Luật.

Về nghĩa vụ xét xử của tòa án
Dựa trên giả thiết rằng tòa án có nghĩa vụ xét xử và sự khước từ xét xử là sai trái, Tòa có quyền xét xử và cũng bị buộc phải xét xử, bởi lẽ không có tòa thì người dân không biết trông chờ vào ai. Nếu tòa án mà không giúp dân chúng việc xét xử tranh chấp thì tòa án không còn ý nghĩa của nó nữa và xã hội sẽ nên hỗn loạn.
Một số quốc gia theo trường phái "án lệ" như Anh quốc thường đem "lẽ công bằng" như là một tiêu chuẩn cho sự xét xử. Các tòa án chưa bao giờ từ chối việc xét xử với lý do rằng chưa có Luật điều chỉnh bởi vì họ có “lẽ công bằng” và họ thừa nhận nghĩa vụ phải xét xử của mình. Thông thường những phán quyết phải vận dụng lẽ công bằng (vì chưa có Luật) thường trở thành án lệ, và chính những án lệ “bất thường” đó sẽ trở thành một quy chuẩn cư xử mới mang tính chất của Pháp Luật.
Có một điều cần phải thừa nhận mặc nhiên ở đây đúng theo tinh thần thượng tôn Pháp Luật rằng: bản án chính là điểm dừng của Pháp Luật. Phán quyết của Tòa án sẽ khiến cho mọi sự dị nghị phải dừng lại và mọi "kẽ hở Pháp Luật" còn sót lại phải biến mất.

Hãy bỏ thói quen dùng chữ "kẽ hở Pháp Luật" và "lách luật"
Dù rằng thực tế có rất nhiều người dùng những âm mưu thủ đoạn che dấu sự vi phạm Pháp luật, thậm chí họ kết bè kết cánh để bao che lẫn nhau và lũng đoạn Pháp luật, đó không phải là sự lách luật mà chính là sự vi phạm. Ngược lại bất cứ ai khi áp dụng Pháp luật một cách khôn ngoan, hợp lý có lợi nhất cho mình và không phạm điều cấm, thì đều có thể tự tin rằng mình hành động đúng và không vi phạm luật.
Uy tín và quyền năng của Pháp luật chỉ có được khi nó xuất phát từ sự thừa nhận và niềm tin của dân chúng vào công lý, vào sự công bằng mà Pháp luật đang đại diện. Sự cưỡng ép bằng bạo lực mà không dựa trên tính đúng đắn của Pháp luật và lẽ công bằng thì dù có dùng danh nghĩa của nhà nước cũng chẳng khác gì hành động của kẻ cướp, của lũ giặc hay của bọn MAFIA. Nói khác đi, yếu tố tinh thần trong Pháp luật quan trọng hơn rất nhiều so với phần vật chất của nó.
Việc bỏ thói quen dùng từ "kẽ hở Pháp Luật" và "lách luật" sẽ khiến cho cách hiểu Pháp Luật không bị méo mó, tinh thần thượng tôn Pháp luật trở thành một chân lý nằm sâu trong tư duy của dân chúng, chỉ khi ấy việc xây dựng nhà nước Pháp quyền ở Việt nam mới có thể thành công.

----------------------------

II. Tội bất kính với vua
Phan Thanh Hải

“Luật Trung hoa quy định kẻ nào phạm tội bất kính với vua thì phải tử hình. Vì luật không định nghĩa thế nào là bất kính nên chuyện gì cũng có thể làm cái cớ để xử tử người bị ghét, có khi chu di cả gia tộc người ta nữa…Thế thì đủ rõ khái niệm về tội chống vua là rất mơ hồ, làm cho chính thể trở thành chuyên chế.”

Đó là quan điểm của Montesquieu trong cuốn “Tinh thần Pháp luật” ra đời năm 1748, cách đây 260 năm.

Và đây là một điều Luật khá quen thuộc:

Điều 88:
Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.”

Phàm những kẻ sỹ trong thiên hạ tự nhận thấy mình có chút lương tri, dù được đào tạo từ bất kể lò tiểu học, trung học, đại học, trường đời, trường học nhà tù… cũng đều hay nói, phát biểu làm đụng chạm hay phạm đến cái gọi là chính trị. Thậm chí họ còn viết ra những thứ mà người ta nói: nhẹ thì bảo là biểu lộ thái độ chính trị, nặng thì bảo là làm chính trị. Theo thiển ý của tôi thì cái đám kẻ sỹ hay bộc lộ ra sự chỉ trích, phê phán, cười cợt ấy [hầu như ít khi khen] đều xuất phát từ ý thức phản kháng cá nhân đối với những hiện trạng Xã hội và đặc biệt là những hành vi, động thái của quan chức, của Đảng và cơ quan nhà nước.
Ở hầu hết các nước có thể chế Dân chủ - Cộng hòa thì những hành vi biểu lộ sự không đồng ý, chỉ trích, phê phán nhà nước đều là bình thường. Ngay cả hành vi phản kháng có tính quy mô và nguy hiểm nhất đối với chính phủ hiện hữu là sự thành lập một Đảng phái chính trị đối lập [với Đảng cầm quyền] thì cũng không hề bị cấm đoán.
Vâng đấy là chuyện ở nước người… ta chớ có nên hào hứng quá mà tưởng bở! Cái kiểu đó không hoặc chưa phù hợp với chúng ta ở tại nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam. Chúng ta có Cộng hòa, nhưng chúng ta còn có thêm Xã hội chủ nghĩa kèm với một mục tiêu khá lâu dài…
Tuy nhiên để tránh sự quá đà, tôi chỉ bàn luận về những đặc điểm của loại Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam trong phạm vi Điều 88 và ý nghĩa của sự “chống Nhà nước” mà thôi.

Các đặc điểm để xác định tội phạm này như sau:

1. Về hành vi khách quan và quan hệ nhân quả
- Các hành vi cụ thể của tội phạm là: “tuyên truyền”, “phỉ báng”, “xuyên tạc”, “phao tin bịa đặt”, “làm ra”, “tàng trữ”, “lưu hành” biểu hiện qua lời nói, văn bản, “văn hóa phẩm”. Đây cũng là những yếu tố mang tính chất nguyên nhân.
- Điều luật không nêu cụ thể phần hậu quả mà hành vi ấy sẽ mang đến duy chỉ có một yếu tố nhỏ là “gây hoang mang trong nhân dân” [trong điều luật] hoặc “làm giảm uy tín của chính quyền nhân dân” [theo giáo trình Luật HSVN_ĐH Luật Hà nội].

2. Về ý thức chủ quan của tội phạm:
- MỤC ĐÍCH của những hành vi ấy là “nhằm chống - nhà nước Cộng hòa XHCN VN”.
- Khi xác định được yếu tố “nhằm chống” thì yếu tố CÓ LỖI là đương nhiên.

Trong tất cả các dấu hiệu trên đây thì yếu tố "nhằm chống" là yếu tố quan trọng nhất mà cơ quan điều tra phải chứng minh được thì mới có thể kết luận được là có tội hay không.
Tại sao điểm quan trọng nhất là “nhằm chống”?Đơn giản vì các biểu hiện ra bên ngoài của các hành vi thì khá dễ nhận biết, nhưng ý chí chủ quan nằm trong tâm trí con người thì lại quá khó để xác định.
Tuyên truyền là sự phổ biến rộng rãi một thông tin nào đó, ví dụ như rải truyền đơn, gửi spam e-mail hay chọn chế độ Public cho Blog [?!]…Bên cạnh những hành vi “phỉ báng”, “xuyên tạc”, “phao tin bịa đặt” là có thể nhận biết thì các hành vi “làm ra”, “tàng trữ”, “lưu hành” cũng hết sức cụ thể.
Thế nhưng cái yếu tố “nhằm chống” thì lại mang tính chất suy đoán chủ quan và rất dễ lẫn lộn với những mục đích gần giống, tương tự, thậm chí là hết sức khác biệt. Ranh giới giữa sự phê phán chỉ trích, sự “bất đồng chính kiến” và sự chống đối là khá mong manh. Sự mong manh này là nguy hiểm và đe dọa đến sự an toàn Pháp lý của bất cứ công dân nào.
Với thái độ cầu tiến và khách quan thì người ta dễ đồng cảm với câu “kẻ chê ta mà chê phải là thầy ta” nhưng với tư duy độc đoán và thành kiến thì lại cho rằng “kẻ chê ta là kẻ chống phá ta” [mà chưa cần suy nghĩ là chê đúng hay chê sai - kèm theo là sự bao biện rằng vì thế này thế nọ thế kia].
Một ông giám đốc độc đoán sẽ không thích nhân viên hay lý sự và thường thì ông ta sẽ ghi nhận trong đầu là có một kẻ khó bảo và hay chống đối.
Trong một cuộc tranh luận nảy lửa sẽ có lúc một bên cho rằng bên kia luôn tìm lý lẽ để chống đối mình.
Ngay chính tôi cũng tự kiểm điểm thấy mình có khuynh hướng nói ngược, phản biện - phải chăng đó là ý thức và mục đích của tôi là chống đối?
Tôi đã không tìm thấy lời kết để phân định sự tù mù của chế định Pháp luật này. Bởi lẽ tôi và các bạn cũng có thể tìm ra rất nhiều luận điểm cho thấy rằng cái ranh giới ấy chỉ phụ thuộc vào những định kiến chủ quan.
Bất cứ ai muốn nói thật, trung thực với lương tri của mình [theo cách phản biện xã hội] cũng đều mang cái cảm giác lo âu, e sợ và đều có khả năng bị quy chụp vào cái tội ấy.

Vậy thì đâu là giải pháp?
Theo tôi thì điều 88 của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2000 cần thiết phải được điều chỉnh và tốt hơn hết là nên xóa bỏ nó đi.
Bởi lẽ nếu ai đó bị kết án mà không hiểu được lý do tại sao, không tâm phục khẩu phục thì oán thán ngày càng chồng chất. Thực tế những người “bất đồng chính kiến” từng bị khép vào tội ấy đều không hề có được cảm giác tâm phục, khẩu phục. Liệu việc kết án và hình phạt tù có đạt được mục đích “giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội” như nhà nước ta mong đợi hay không? Thực tế cho thấy kết quả là ngược lại, hầu hết họ đều cho rằng mình đã hành động đúng với nhận thức và lương tri của mình, họ đều thấy mình yêu nước nhưng lại bị kết tội chống lại đất nước.
Bởi lẽ nó là một sản phẩm có sau Hiến pháp 1992 và có khả năng vi hiến:
Điều 53: Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Điều 69: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
Chúng ta có quyền yêu cầu Quốc hội hủy bỏ điều luật ấy hay không? Tôi xin trả lời là có, chúng ta có cái quyền ấy, bởi lẽ chúng ta là cử tri đã bỏ phiếu cho những đại diện Lập Pháp [Đại biểu Quốc hội], chúng ta có quyền yêu cầu, kiến nghị hủy bỏ những điều luật không ích cho nước, không lợi cho dân và không còn phù hợp với thời đại nữa.

Phan Thanh Hải
(Blogger Anh Ba Sài Gòn)
© Thông Luận 2010

.
.
.

No comments: