Chính
sách của Mỹ về vấn đề Đài Loan đang chệch hướng?
Oriana Skylar Mastro - New York Times
Nguyễn Thị
Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2023/10/20/chinh-sach-cua-my-ve-van-de-dai-loan-dang-chech-huong/
Suốt nửa thế kỷ qua, Mỹ đã tránh gây chiến với
Trung Quốc về vấn đề Đài Loan, phần lớn nhờ vào sự cân bằng tinh tế giữa răn đe
và trấn an.
Nhưng sự cân bằng đó đã bị đảo lộn. Trung Quốc
đang xây dựng và phô trương sức mạnh quân sự của mình, và những lời lẽ thù địch
bắt đầu đến từ cả Bắc Kinh và Washington. Dường như, chiến tranh ngày càng dễ xảy
ra hơn.
Vẫn chưa quá muộn để khôi phục lại sự cân bằng
vốn đã giúp duy trì hòa bình trong nhiều thập niên qua, nhưng sẽ cần một số
hành động để giảm bớt lo ngại của Trung Quốc. Đây sẽ là một nhiệm vụ khó khăn
vì sự không khoan nhượng của Trung Quốc và bầu khí “quá nóng” đang hiện diện ở
Washington. Nhưng nó đáng để mạo hiểm về mặt chính trị, nếu điều đó giúp ngăn
được chiến tranh.
Răn đe được thực hiện dưới hình thức Mỹ ngụ ý
sử dụng lực lượng quân sự để ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc vào Đài
Loan. Trong khi đó, trấn an có liên quan đến nhận thức rằng Mỹ sẽ không can thiệp
vào các quyết định liên quan đến tình trạng chính trị cuối cùng của Đài Loan.
Mỹ và các đồng minh khu vực phải tiếp tục tạo
ra khả năng răn đe quân sự mạnh mẽ. Nhưng các nhà lãnh đạo và chính trị gia Mỹ
cũng cần ghi nhớ sức mạnh của sự trấn an, cố gắng hiểu sự nhạy cảm sâu sắc của
Trung Quốc về Đài Loan, đồng thời nên tái cam kết – một cách rõ ràng và dứt
khoát – với quan điểm rằng chỉ có Trung Quốc và Đài Loan mới có thể giải quyết
được những khác biệt chính trị của họ, một lập trường cho đến nay vẫn là chính
sách chính thức của Mỹ
Trong Chiến tranh Lạnh, Bắc Kinh và Washington
đã ký một loạt thông cáo liên quan đến Đài Loan. Một trong số chúng tuyên bố rằng
Mỹ “tái khẳng định sự quan tâm của mình đến việc giải quyết hòa bình vấn đề Đài
Loan bởi chính người Trung Quốc.” Văn bản này và nhiều văn bản khác đều được viết
mơ hồ một cách có chủ đích, nhưng nó vẫn được tất cả các bên chấp nhận như một
cam kết để tránh làm xáo trộn tình hình. Và Trung Quốc vẫn xem thỏa thuận này là
có tính ràng buộc.
Chính xác hơn thì Trung Quốc mới là bên làm
xáo trộn tình hình trước.
Kể từ năm 2016, khi Thái Anh Văn của Đảng Dân
Tiến có xu hướng ủng hộ độc lập cho Đài Loan được bầu làm Tổng thống (kế nhiệm
một chính quyền thân thiện hơn với Trung Quốc), Tập Cận Bình đã nhiều lần phô
trương sức mạnh quân sự của Trung Quốc, bằng các cuộc tập trận quân sự quy mô lớn
và các chiến thuật gây áp lực khác, nhằm mục đích ngăn cản tình cảm ủng hộ Đài
Loan độc lập.
Các chính trị gia Mỹ đã phản ứng đúng đắn bằng
những lời ủng hộ một Đài Loan dân chủ, bằng cách cung cấp vũ khí cho nước này,
và bằng việc tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực. Nhưng phản ứng
của Mỹ cũng đang đổ thêm dầu vào lửa.
Tôi đã nghiên cứu chiến lược quốc phòng của Mỹ
với nhiều vai trò khác nhau trong quân đội trong hơn một thập niên. Gần đây,
tôi đã đến Bắc Kinh, nơi tôi gặp các quan chức chính phủ và quân đội Trung Quốc,
các học giả và chuyên gia hàng đầu từ các viện chính sách trực thuộc Đảng Cộng
sản. Trong các cuộc gặp gỡ này, tôi nhận thấy Bắc Kinh ít quan tâm đến những nỗ
lực của Mỹ nhằm tăng cường vị thế quân sự trong khu vực – nói cách khác là khía
cạnh răn đe – so với những luận điệu chính trị, vốn được Trung Quốc xem là bằng
chứng cho thấy người Mỹ đang dần từ bỏ sự mơ hồ trong quá khứ, và hướng tới ủng
hộ nền độc lập trên thực tế của Đài Loan.
Họ có rất nhiều bằng chứng để chứng minh điều
đó.
Tháng 12/2016, Donald Trump trở thành Tổng thống
Mỹ đầu tiên kể từ khi bình thường hóa quan hệ Mỹ-Trung năm 1979 nói chuyện trực
tiếp với một nhà lãnh đạo Đài Loan, khi bà Thái gọi điện chúc mừng ông đắc cử.
Về phần mình, Tổng thống Biden đã bốn lần mâu thuẫn với chính sách mơ hồ của Mỹ
khi nói rằng người Mỹ sẽ hỗ trợ Đài Loan về mặt quân sự nếu Trung Quốc tấn
công. Số lượng thành viên Quốc hội Mỹ đến thăm Đài Loan – hành động mà Trung Quốc
cho là công khai ủng hộ nền độc lập của hòn đảo – đã đạt mức cao nhất trong một
thập niên vào năm ngoái, bao gồm chuyến đi vào tháng 8/2022 của Nancy Pelosi,
Chủ tịch Hạ viện vào thời điểm đó và là quan chức cấp cao nhất của Mỹ thăm
chính thức Đài Loan kể từ những năm 1990. Những chuyến thăm vẫn tiếp tục diễn
ra trong năm nay: Hồi tháng 6, một phái đoàn Quốc hội Mỹ gồm chín thành viên,
đông nhất trong nhiều năm, đã đến Đài Bắc.
Vấn đề còn nằm ở việc thông qua nhiều đạo luật
mang tính khiêu khích. Năm ngoái, Đạo luật Chính sách Đài Loan, trong đó ủng hộ
vai trò của Đài Loan trong các tổ chức quốc tế, đã được đưa ra tại Thượng viện
Mỹ, và vào tháng 7 năm nay, Hạ viện Mỹ đã thông qua một đạo luật tương tự.
Trong khi đó, vào tháng 1, các thành viên Đảng Cộng hòa tại Hạ viện đã đề xuất
một kiến nghị công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập.
Những hành động như thế gây áp lực lớn lên Tập,
người không thể chấp nhận việc đi vào lịch sử với tư cách là nhà lãnh đạo Trung
Quốc để mất Đài Loan. Điều đó được Bắc Kinh coi là một mối đe dọa sống còn, có
khả năng thúc đẩy tình cảm ly khai ở các khu vực bất ổn như Tây Tạng và Tân
Cương.
Hiện tại, những nghi ngờ đã có từ lâu về khả
năng quân sự của Trung Quốc, cũng như lo ngại sự trả đũa của Mỹ và đồng minh là
đủ để kiềm chế Tập. Nhưng nếu ông kết luận rằng Mỹ đã phá vỡ, một lần và mãi
mãi, quan điểm trước đây của mình về Đài Loan và có ý định cản trở sự thống nhất
với đại lục, ông có thể cảm thấy cần phải hành động quân sự. Mỹ có thể củng cố
sức mạnh quân sự trong khu vực nhằm ngăn chặn Trung Quốc lựa chọn con đường chiến
tranh. Nhưng sẽ rất khó đạt được mức độ thống trị quân sự đủ để ngăn Tập thực sự
phát động một cuộc chiến mà ông cho là cần thiết.
Việc trấn an Trung Quốc sẽ đòi hỏi Biden nhắc
lại rằng Mỹ không ủng hộ nền độc lập của Đài Loan, hay phản đối việc hòn đảo thống
nhất trong hòa bình với Trung Quốc, và rằng cuối cùng số phận của Đài Loan tùy
thuộc vào Đài Bắc và Bắc Kinh. Điều đó có nghĩa là phải tránh những nỗ lực tạo
không gian quốc tế cho Đài Loan, và tránh lên án Bắc Kinh khi nước này lôi kéo
các đối tác ngoại giao của Đài Bắc. Nhà Trắng cũng cần sử dụng đòn bẩy mà họ có
để ngăn cản các thành viên Quốc hội đến thăm Đài Loan và đe dọa phủ quyết các đạo
luật mang tính khiêu khích.
Chắc chắn sẽ có sự phản đối ở cả Washington và
Đài Bắc, và cũng có thể Tập đã quyết định sẽ chiếm Đài Loan, bất chấp lập trường
của Mỹ. Nhưng lập trường trung lập về mặt chính trị đối với Đài Loan là điều mà
người Mỹ đã theo đuổi trong nhiều thập niên. Các đời tổng thống từ George H.W.
Bush tới Barack Obama đều ủng hộ đối thoại hòa bình giữa Đài Bắc và Bắc Kinh để
giải quyết những khác biệt giữa hai bên.
Ngoài ra, còn có những hậu quả dài hạn cần xem
xét: Nếu sự kết hợp giữa răn đe và trấn an thất bại, và Trung Quốc tấn công Đài
Loan, điều đó sẽ tạo ra tiền lệ để các nhà lãnh đạo Trung Quốc quyết định theo
đuổi bạo lực nhằm đạt được mục tiêu của mình. Nhưng nếu Trung Quốc vẫn còn một
con đường để cuối cùng thuyết phục người dân Đài Loan – thông qua dụ dỗ hoặc
gây áp lực – rằng việc thống nhất một cách hòa bình là vì lợi ích của họ, thì
đó có thể là một Trung Quốc mà chúng ta có thể sống chung.
Trong trường hợp tốt nhất, Mỹ và Trung Quốc sẽ
đạt được một thỏa thuận cấp cao, một thông cáo chung mới, trong đó Washington
nhắc lại quan điểm trung lập chính trị lâu đời của mình, và Trung Quốc cam kết
giảm bớt các mối đe dọa quân sự. Điều này sẽ vừa ngăn chặn chiến tranh, vừa
mang lại cho Trung Quốc không gian chính trị để hướng tới thống nhất bằng hòa
bình, có thể là qua việc sử dụng ảnh hưởng của Trung Quốc để cô lập Đài Loan và
cuối cùng thuyết phục người dân trên đảo rằng họ nên đạt được thỏa thuận với Bắc
Kinh. Nhưng Washington không có quyền ngăn cản sự thống nhất của hai bên – người
Mỹ chỉ có thể đảm bảo điều đó không xảy ra bằng con đường quân sự hoặc cưỡng bức.
Cuộc chiến giữa Mỹ và Trung Quốc xoay quanh
Đài Loan có thể là cuộc chiến tàn khốc nhất kể từ Thế chiến II. Dù khó khăn về
mặt chính trị đến đâu, các nhà lãnh đạo Mỹ vẫn có nhiệm vụ cố gắng ngăn chặn
xung đột, và điều đó có nghĩa là cần nói năng nhẹ nhàng hơn, nhưng vẫn phải
mang theo một cây gậy lớn.
-----------------------
Oriana Skylar Mastro là nghiên cứu
viên tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli tại Đại học Stanford và là
nghiên cứu viên cấp cao không thường trú tại Viện Doanh nghiệp Mỹ. Bà là tác giả
của cuốn sách sắp xuất bản “Upstart: How China Became a Great Power.”
Nguồn: Oriana Skylar Mastro, “This
Is What America Is Getting Wrong About China and Taiwan,” New York
Times, 16/10/2023
No comments:
Post a Comment