Biển Đông : Việt Nam có chịu "nhượng" chủ quyền
để cùng Philippines chống Trung Quốc ?
Thu Hằng - RFI
Đăng ngày: 02/10/2023 - 11:31
Philippines muốn đạt được một thỏa thuận với Việt
Nam nhằm tăng cường hợp tác hàng hải ở Biển Đông. Đích thân tổng thống Marcos
Jr. bày tỏ mong muốn này ngày 10/08/2023 trong buổi hội đàm chia tay với đại sứ
Việt Nam mãn nhiệm Hoàng Huy Chung. Mục tiêu sâu xa là đoàn kết để đối phó với
đối thủ mạnh hơn là Trung Quốc. Tuy nhiên, một thỏa thuận như vậy có thể sẽ kéo
theo những vấn đề chủ quyền chồng lấn giữa hai nước trong vùng quần đảo Trường
Sa ở Biển Đông.
Bản đồ về các vùng tranh chấp chủ quyền chồng chéo
của các nước ở Biển Đông. © RFI
Nhiều chuyên gia nước ngoài từng gợi ý rằng Việt
Nam, Philippines, Malaysia - ba nước chính có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông
- nên ngồi lại đàm phán với nhau để hình thành một mặt trận chung, mạnh mẽ hơn
để đối phó với Trung Quốc.
Tuy nhiên, liệu Hà Nội có sẵn sàng xem lại những đòi
hỏi chủ quyền không ? Những đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam có phù hợp với Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển ? Việt Nam được lợi gì khi tăng cường hợp tác
hàng hải với Philippines ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu
Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de
Lyon), Pháp.
.
RFI
: Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa, chồng
lấn với một số đảo mà Philippines tuyên bố chủ quyền. Trước hết, xin ông giải
thích Việt Nam và Philippines tranh chấp những gì ở Biển Đông ? Hai nước này có
tranh chấp gì với bên thứ ba ?
Laurent
Gédéon : Trước tiên cần xác định được là chúng ta đang bàn
về điều gì khi nhắc đến Biển Đông, đặc biệt là về quần đảo Trường Sa. Đó là một
quần đảo với nhiều bãi đá ngầm mà về nguyên tắc là không phù hợp với một đời
sống tự túc tại đây. Sáu quốc gia tuyên bố chủ quyền với toàn bộ hoặc một phần
quần đảo, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Brunei và Malaysia.
Để khẳng định chủ quyền, những nước này đưa quân đội đến đồn trú tại một hoặc
nhiều đảo, trừ Brunei.
Nước đòi chủ quyền nhiều nhất là Trung Quốc với
“đường 9 đoạn”, khiến quốc gia này thành đối thủ với 5 nước còn lại. Việt Nam
cũng tương tự, đòi chủ quyền với toàn bộ quần đảo, giống như Đài Loan. Nhìn
chung ba nước khác tuyên bố chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của
họ.
Liên quan đến Việt Nam và Philippines, cả hai nước
cùng đòi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa nhưng với quy mô khác nhau. Như đã nói,
Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa. Những tuyên
bố này được thể hiện trong các bản đồ chính thức hoặc không chính thức được
xuất bản trong nước và thông qua những tuyên bố thường xuyên của các lãnh đạo
chính trị.
Phía Philippines chỉ đòi hỏi chủ quyền đối với những
hòn đảo nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Tình trạng này tạo ra sự chồng
chéo về tham vọng của Hà Nội và Manila. Và các yêu sách chồng chéo này tạo ra
sự cạnh tranh giữa hai nước.
.
RFI
: Phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye (PCA) áp dụng được như
nào đối với những tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ?
Laurent
Gédéon : Để hiểu phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La
Haye liên quan như thế nào đến Việt Nam, cần phải nhắc lại là Hà Nội khẳng
định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chủ yếu dựa trên những
lập luận lịch sử, trong đó có kiến thức cổ xưa khẳng định sự tồn tại của hai quần đảo này là do ngư dân Việt Nam thường xuyên lui tới.
Tuy nhiên, nếu như Việt Nam có thể chứng minh được
rằng quần đảo Hoàng Sa được hoàng đế Gia Long trực tiếp quản lý vào năm 1816,
sau đó được hoàng đế Minh Mạng xác nhận vào năm 1833 thì đối với quần đảo
Trường Sa lại khó hơn. Cần nhớ rằng Pháp tuyên bố quần đảo Trường Sa là “vùng
đất vô danh” (terra nullius) vào tháng 09/1930 khi chiếm hữu chúng
và sau này mới trao lại cho chính quyền Việt Nam.
Ngoài ra, còn có một điểm khác cần nêu lên trước khi
đề cập đến yêu sách chủ quyền của Việt Nam, đó là phán quyết của Tòa Trọng Tài
Thường Trực La Haye ngày 12/07/2016 chú ý đến hai điểm rất quan trọng.
Thứ nhất, Tòa nhấn mạnh đến tính vô hiệu các
quyền lịch sử. Tòa cho rằng kể cả Trung Quốc cũng khẳng định có các
quyền lịch sử đối với tài nguyên ở các vùng biển ở Biển Đông nhưng các quyền
này đã bị vô hiệu vì chúng không phù hợp với các vùng đặc quyền kinh tế được
quy định trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982, còn gọi là
công ước Montego Bay). Như
vậy, rõ ràng là tòa đã vô hiệu hóa về mặt pháp lý “đường 9 đoạn” của Bắc
Kinh.
Điểm quan trọng thứ hai trong phán quyết, đó là không
công nhận các đá ngầm là đảo. Điều 121 của UNCLOS khẳng định “những
đá ngầm không thích hợp cho con người tự sinh sống hoặc không có đời sống kinh
tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa”. Khi viện
dẫn điều này, Tòa Trọng Tài đã nêu rõ rằng “những cấu trúc nổi khi thủy
triều lên cao tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý trong khi cấu
trúc chìm khi thủy triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy”.
Nói một cách khác, một đá ngầm với các điều kiện tự
nhiên của chúng không thể trở thành một đá và càng không thể được coi là đảo
theo luật pháp quốc tế. Điều này áp dụng đối với cả trường hợp Trung Quốc đã
bồi đắp để một số thực thể ngầm nổi lên mặt nước. Chỉ tình trạng tự nhiên ban
đầu mới có giá trị về luật. Nhìn từ lập trường của Tòa, những công trình bồi
đắp do Bắc Kinh tiến hành ở Biển Đông không tạo ra các vùng đặc quyền kinh tế
và càng không thể có thềm lục địa quanh những hòn đảo nhân tạo này. Tóm lại,
theo Tòa Trọng Tài Thường Trực, chỉ có những vùng đặc quyền do bờ biển của các
nước tạo ra là hợp pháp.
Tuy nhiên, phán quyết của Tòa lại đặt ra vài
vấn đề cho Việt Nam. Thứ nhất về các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), bởi vì khác
với Trung Quốc, Việt Nam không phản đối thẩm quyền của Tòa Trọng Tài
Thường Trực liên quan đến Biển Đông. Việt Nam công nhận tính hợp lệ của vùng
đặc quyền kinh tế và tuyên bố quyền kiểm soát các vùng đặc quyền kinh tế của
mình. Chúng ta nhớ rằng Hà Nội đã kịch liệt phản đối bất kỳ hành động thăm dò
nào của tàu Trung Quốc diễn ra trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, như
trường hợp của tầu Hải Dương 8 vào tháng 07/2019. Hệ quả là Việt Nam khó
có thể phản đối Manila kiểm soát vùng đặc quyền kinh tế của Philippines cho dù
bao gồm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.
Khó khăn thứ hai liên quan đến các đảo. Giả sử có
một điều lệ cho phép Việt Nam giữ chủ quyền đối với các đảo ở quần đảo Trường
Sa, phán quyết của Tòa cũng quy định rằng việc đó sẽ không bao giờ tạo ra vùng
đặc quyền kinh tế. Điều này sẽ hạn chế khả năng tận dụng lợi thế của Việt Nam.
Khó khăn thứ ba liên quan đến tuyên bố chủ quyền đối
với toàn bộ quần đảo Trường Sa. Vì lập luận của Việt Nam tương tự với Trung
Quốc, có nghĩa là những bằng chứng lịch sử, nên giả sử Hà Nội viện đến Tòa
Trọng Tài Thường Trực thì Tòa cũng sẽ không ra phán quyết có lợi cho họ. Điều
này khiến Việt Nam rơi vào tình trạng bế tắc pháp lý. Cho nên nếu muốn duy trì
yêu sách và được luật pháp quốc tế công nhận, Việt Nam sẽ không có lựa chọn nào
khác ngoài việc xem xét lại lập luận của mình để đưa ra những yếu tố mới được
chấp nhận về mặt pháp lý.
.
RFI
: Việt Nam luôn tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa. Việt Nam sẵn sàng « nhân nhượng » phần nào với Philippines
?
Laurent
Gédéon : Về yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa có
lẽ Việt Nam phải đàm phán trực tiếp với Trung Quốc trong bối cảnh cán cân vô
cùng bất lợi cho Việt Nam, song đòi hỏi chủ quyền của Hà Nội đối với quần đảo
Trường Sa còn phức tạp hơn nhiều, do nhiều yếu tố : Khó lập được mối liên
hệ lịch sử rõ ràng của Việt Nam với Trường Sa, có nhiều nhân tố liên quan,
khoảng cách địa lý không đều giữa các quốc gia với quần đảo không hẳn có lợi
cho những nước nằm ở xa nhất, như trường hợp Việt Nam.
Nếu bám vào khuôn khổ pháp lý mà chúng ta đã đề cập
thì Việt Nam khó có thể bỏ qua đàm phán với Philippines. Nếu các cuộc đàm phán
như vậy diễn ra một ngày nào đó, rất có khả năng là chúng sẽ dẫn đến việc chia
sẻ các vùng chủ quyền. Thực vậy, Việt Nam khó có thể phản đối giá trị pháp lý
của những tuyên bố chủ quyền của Philippines đối với các đảo nằm trong vùng đặc
quyền kinh tế của nước này, trừ khi đi ngược lại với luật pháp quốc tế - điều
mà Hà Nội vẫn dựa vào đó để khẳng định vùng đặc quyền kinh tế mình, như chúng
ta đã đề cập ở trên.
Ngoài ra còn phải bổ sung thêm một điểm quan trọng
về địa-chính trị. Chúng ta thấy từ vài năm nay, căng thẳng gia tăng thường
xuyên ở khu vực Đài Loan. Hoa Kỳ gia tăng ủng hộ hòn đảo, đồng thời củng cố các
thỏa thuận quân sự với Manila, cho phép Mỹ tiếp cận 9 căn cứ của Philippines.
Trước tình hình đó, Trung Quốc liên tục nỗ lực cải thiện năng lực quân sự và
thường xuyên đe dọa can thiệp vũ trang vào Đài Loan. Đến lúc nào đó, tình hình
ngày càng căng thẳng này có thể sẽ dẫn tới xung đột.
Trong trường hợp xảy ra xung đột Đài Loan, nếu như
không có gì cho thấy Biển Đông sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp thì
Philippines gần như chắc chắn sẽ có liên quan trực tiếp. Giả sử cuộc xung
đột này khiến Trung Quốc yếu đi, Philippines có thể được lợi từ việc sát cánh
với Hoa Kỳ, có nghĩa là Washington sẽ ủng hộ về ngoại giao đối với các yêu cầu
chủ quyền của Manila. Điều này có thể sẽ xảy ra ngay cả khi lập trường chính
thức của Hoa Kỳ là không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền quần đảo.
Do đó có thể thấy lợi ích của một thỏa thuận sớm giữa Philippines và Việt Nam
vì nếu không, vị thế cũng lợi ích của Việt Nam có thể bị suy yếu trong trường
hợp xảy ra xung đột.
.
RFI
: Một thỏa thuận như vậy có thể coi là bí mật quốc gia, như Việt Nam và
Trung Quốc - hai nước có hệ thống chính trị tương đồng, đã áp dụng. Tuy nhiên
với Philippines thì lại khác, thỏa thuận có thể được công bố. Trong trường hợp
đó, Việt Nam sẽ phải vận động người dân như thế nào trong khi Hà Nội luôn khẳng
định chủ quyền đối với cả Hoàng Sa và Trường Sa ?
Laurent
Gédéon : Theo tôi, khó hình dung ra được là có thể giữ bí
mật một thỏa thuận như vậy nếu xét tới bối cảnh chính trị - xã hội rất khác
nhau giữa Việt Nam và Philippines. Tôi nghĩ là nếu có một thỏa thuận như vậy,
chính quyền Việt Nam cần giảng giải cho người dân bằng cách nhấn mạnh đến việc
phân chia các vùng chủ quyền sẽ không gây tổn hại đến lợi ích kinh tế và chiến
lược của đất nước và sẽ tạo ra những lợi thế vồn không thể có được trong cảnh
bế tắc.
Ngoài ra, không có gì cấm hình dung rằng một thỏa
thuận chính thức về việc phân chia chủ quyền có thể được bổ sung thêm các thỏa
thuận khác cho phép hai nước sử dụng chung một số nguồn tài nguyên. Nếu mối
quan hệ giữa Hà Nội và Manila là đáng tin cậy thì điều này có thể thực hiện
được và sẽ cho phép dư luận Việt Nam hiểu rõ hơn về lợi ích của một cuộc đàm
phán như vậy.
Đó là sự đảo ngược hoàn toàn những phát biểu hiện
nay, mà theo tôi, để làm được việc này đòi hỏi quyết tâm chính trị rõ ràng và
cần một quá trình chuẩn bị trước kỹ lưỡng, lâu dài bởi vì dư luận Việt Nam sẽ
phải mất vài năm để quen với cách nhìn nhận khác về quần đảo Trường Sa cùng với
những thách thức liên quan đến chủ quyền Trường Sa. Nhưng tôi nghĩ là điều này
có thể sẽ thuận lợi bởi lập trường của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa,
ngược lại sẽ không thay đổi.
.
RFI
: Các cuộc tập trận gần đây giữa Philippines và các nước Mỹ, Nhật Bản, Úc ở
Biển Đông nhằm thể hiện cứng rắn trước những hành động quấy rối và yêu sách của
Trung Quốc. Tuy nhiên, việc này cũng có tác động phần nào đến Việt Nam, một bên
có tranh chấp chủ quyền ở trong vùng ?
Laurent
Gédéon : Đúng vậy, những sự kiện này có tác động rõ ràng đối
với Việt Nam. Từ nhiều năm nay, Hoa Kỳ tìm cách tập hợp các nước trong vùng
phản đối những yêu sách hàng hải của Bắc Kinh trong một cấu trúc an ninh do
Washington điều hành. Nhưng cho đến giờ, Hà Nội vẫn không muốn tham gia một cơ
chế như vậy. Nhưng trên bình diện địa-chính trị, hoàn toàn có thể tự hỏi là Hà
Nội sẽ được gì khi xích lại gần với Hoa Kỳ trong trường hợp Mỹ-Trung xảy ra
xung đột.
Đây là một ván cược. Việc đặt cược vào thắt chặt
quan hệ chiến lược Mỹ-Việt rõ ràng là đầy gay góc với Hà Nội với hai khả năng
có thể xảy ra. Trường hợp thứ nhất, Trung Quốc ra khỏi xung đột ở thế mạnh.
Trong giả thuyết này, nếu sát cánh quá lộ liễu với Washington, Việt Nam có nguy
cơ phải trả giá, nhất là về kinh tế - lĩnh vực vốn kết nối chặt chẽ hai nước.
Ở giả thuyết thứ hai, Trung Quốc thoát khỏi xung đột
trên thế yếu. Trong trường hợp này, Việt Nam có thể được lợi từ cuộc xung đột,
kể cả đối quần đảo Hoàng Sa. Còn đối với quần đảo Trường Sa, Hà Nội vẫn không
thể không đàm phán với Manila. Nhưng cuộc đàm phán này có thể sẽ cân bằng hơn
và Hoa Kỳ có thể sẽ đóng vai trò trọng tài hơn là ủng hộ Manila. Do đó, theo
tôi, Hà Nội sẽ phải tính toán tỉ lệ thiệt/hơn khi sát cánh với Washington.
Tóm lại, dù là với bất kỳ kịch bản nào, chính sách
thận trọng và giữ khoảng cách của Hà Nội, hợp lý trong bối cảnh hiện tại, có lẽ
sẽ phản tác dụng trong trường hợp nổ ra xung đột và có điều chỉnh lớn về cân
bằng địa chính trị trong vùng.
Điều gần như chắc chắn là hiện nay, căn cứ vào lập
trường bất di bất dịch của Bắc Kinh về Biển Đông và nhìn vào chiến lược kiềm
chế Trung Quốc của Mỹ, Việt Nam có lẽ không có cơ hội nào giành lại chủ quyền
đối với quần đảo Hoàng Sa thông qua việc đàm phán với nước láng giềng và trong
mọi trường hợp sẽ rơi vào thế yếu trước Philippines về Trường Sa nếu như không
có đàm phán trước với Manila hoặc xích lại gần với Washington.
Do đó, chừng nào những vấn đề này được Hà Nội coi là
một thách thức quan trọng, tôi cho rằng việc cần điều chỉnh các trục ngoại giao
của Việt Nam có lẽ việc cần thiết để nâng cao vị thế và những tuyến bố chủ
quyền của Việt Nam trong trung hạn.
.
RFI
Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên
Trường Sư phạm Lyon.
----------------------------
Các nội dung liên
quan
Biển
Đông : Philippines tìm kiếm thỏa thuận hàng hải với Việt Nam vào lúc Bắc
Kinh tăng sức ép
PHILIPPINES
- TRUNG QUỐC - BIỂN ĐÔNG
Biển
Đông : Philippines lên án hành động của Trung Quốc và thúc đẩy hợp
tác hàng hải với Việt Nam
Biển
Đông: Trung Quốc xây dựng đường băng mới trên đảo Tri Tôn, Hoàng Sa
No comments:
Post a Comment