Ấn
Độ - Trung Quốc : Từ hữu nghị giả tạo đến đối thủ cạnh tranh
Minh
Anh - RFI
Đăng ngày: 14/10/2023 - 11:46Sửa đổi ngày: 14/10/2023 - 11:48
Trung Quốc và Ấn Độ, hai ông khổng lồ tại Châu Á với
những điểm mạnh và điểm yếu. Nếu kể từ giờ Ấn Độ qua mặt Trung Quốc về mặt dân
số, thì nước này vẫn còn kém xa nước láng giềng về kinh tế, chiến lược, quân sự.
Trong khi đó, Trung Quốc có tham vọng chiếm vị trí lãnh đạo toàn cầu nhưng phải
đối mặt với chính những điểm yếu của mình : Dân số già, tăng trưởng trì trệ…
https://live.staticflickr.com/65535/53259595240_04c938a349.jpg
Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình và thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi tại một cuộc họp thượng
đỉnh quốc tế ngày 04/09/2017. Reuters/Kenzaburo Fukuhara
Trả lời phỏng vấn Ban tiếng Việt đài RFI, nhà nghiên cứu
Didier Chaudet, chuyên gia về địa chính trị các nước vùng Nam – Trung Á, Viện
Nghiên cứu Pháp về Trung Á (IFEAC) cho rằng "cạnh tranh Ấn – Trung là khó
thể tránh". RFI Tiếng Việt lần lượt giới thiệu các phân tích, đánh giá của
ông Didier Chauder về mối quan hệ đặc biệt giữa hai ông khổng lồ Châu Á.
**********
Trong phần I có tựa đề "Ấn Độ - Trung Quốc : Từ hữu nghị
giả tạo đến đối thủ cạnh tranh", nhà nghiên cứu về Nam – Trung Á, trước hết,
điểm lại ba giai đoạn lớn trong lịch sử quan hệ Trung - Ấn.
Giai đoạn
đầu trong quan hệ Trung - Ấn, bắt đầu từ cuối những năm 1940, thời kỳ giành độc
lập cho đến cuộc chiến 1962. Một thời kỳ mà nhà nghiên cứu Nam – Trung Á gọi là
"tình hữu nghị giả tạo". Ông giải thích :
Didier Chaudet : Giai
đoạn "tình hữu nghị giả tạo", cuối những năm 1940 cho đến khi xảy ra
cuộc chiến tranh năm 1962, đây là một giai đoạn mà vào thời kỳ này một học thuyết
đã bị tan vỡ trước thực tế địa chính trị. Học thuyết này nói rằng, Ấn Độ và
Trung Quốc là hai nước Châu Á, cựu thuộc địa. Hai nước này trong quá khứ chưa
bao giờ gây chiến, do vậy, họ chỉ có thể thông cảm cho nhau.
Vấn đề là, chính Ấn Độ ngay khi giành được độc lập, ngay khi chia cắt với
Pakistan và thậm chí trước đó một chút, thông qua Công đảng, đã muốn tự khẳng định
mình như là tâm điểm địa chính trị của một Châu Á vừa giành được độc lập. Và dĩ
nhiên đối với Trung Quốc, nước này không thể chấp nhận bị xem như là một nước
anh em, vì chúng ta đã quên rằng trong những năm 1940 và đầu những năm 1950, Ấn
Độ thời thủ tướng Nehru đã từng xem Trung Quốc của Mao Trạch Đông như là một đứa
em, chứ không phải như là một anh cả.
Và trên thực tế, rất nhanh chóng đã có những xung đột liên quan đến các
đường biên giới, nhưng không chỉ thế, đó còn là một vấn đề về vị thế : Ai
sẽ là cường quốc thứ ba ? Quý vị đã có Mỹ, có Nga, vậy ai sẽ là cường quốc
thứ ba, cường quốc Châu Á ? Phía Ấn Độ, họ đã tự xem mình là trung tâm của
Châu Á. Nhưng phía Trung Quốc, dĩ nhiên, họ không thể chấp nhận cách tiếp cận
này.
Ở đây có những khác biệt về cảm nhận, bởi vì Ấn Độ quả thật nghĩ rằng
Trung Quốc là quốc gia anh em. Trong khi đối với Trung Quốc, người Ấn Độ chỉ là
những người lính, những người làm thuê, họ là đại diện của đế quốc Anh trong suốt
thế kỷ nhục nhã.
Trong cuộc chiến chống phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, trong suốt thời kỳ hiện
diện của phương Tây và nhất là của Anh Quốc tại một số vùng ở Trung Quốc, những
binh sĩ có mặt tại Trung Quốc lúc bấy giờ đều là binh sĩ người Ấn. Do vậy, đối
với Trung Quốc, trong cuộc trấn áp bằng vũ lực do Anh Quốc tiến hành, trên thực
tế chính những binh sĩ Ấn là người nã súng vào người Trung Quốc. Rồi nha phiến
cũng đến từ Ấn Độ. Do vậy, đối với Trung Quốc, Ấn Độ gắn liền với những ký ức
buồn có liên hệ đến đế chế Anh.
*
Vào thời
điểm này, Trung Quốc và Ấn Độ cũng đã có những vấn đề về biên giới, vốn dĩ chưa
thực sự được xác định. Các vấn đề về Tây Tạng hay Tân Cương vốn dĩ chiếm một vị
trí chiến lược quan trọng đối với Trung Quốc. Đặc biệt việc kiểm soát Tây Tạng
là một trong số các điểm mấu chốt quan trọng trong mối quan hệ căng thẳng Ấn –
Trung.
Didier Chaudet : Đường
kiểm soát thực tế (LAC), vẫn chưa được xác định đầy đủ và đặt ra câu hỏi về việc
Tây Tạng có là một quốc gia độc lập hay không. Một điều đã không được chấp nhận
ngay từ dưới thời nhà Thanh, điều này lại càng không thời Trung Quốc cộng sản,
Trung Quốc của Mao Trạch Đông, bởi vì trên thực tế, bất kể là Tây Tạng hay Tân
Cương, về mặt lịch sử, ngay từ thời triều đại cuối cùng cai trị đất nước trước
nền Cộng hòa, chế độ trước thời cộng sản, đây là những vùng đệm chống lại các mối
đe dọa khác.
Tân Cương là tuyến phòng thủ chống Liên Xô, còn Tây Tạng là để đối phó
với Nam Á và trước đó là chống đế chế Anh. Vì vậy, đối với Trung Quốc, việc bảo
vệ những vùng lãnh thổ này là rất quan trọng. Vấn đề đường biên giới giữa Ấn Độ
và Trung Quốc là một mối đe dọa trực tiếp đến quyền kiểm soát Tây Tạng. Trong
suốt thời kỳ, trong suốt giai đoạn tình hữu nghị giả tạo đó Trung Quốc tái khẳng
định sự thống trị của mình ở Tây Tạng và quý vị có đức Đạt Lai Lạt Ma phải đến Ấn
Độ.
Tại Ấn Độ, có một số phát biểu dường như chấp nhận sự kiểm soát của
Trung Quốc ở Tây Tạng, nhưng cùng lúc có những chỉ trích gián tiếp đặt lại vấn
đề này. Trên thực tế, cho dù đó là về vấn đề Tây Tạng hay là về các quốc gia
vùng đệm giữa Trung Quốc và Ấn Độ như Nepal hay Bhutan, ảnh hưởng của Trung Quốc
và ảnh hưởng của Ấn Độ đều va chạm nhau.
*
"Hai
hổ không thể sống cùng trên một ngọn núi". Chiến tranh 1962 là cột mốc để
Trung Quốc tái khẳng định vị thế cường quốc khu vực đã bị đánh mất. Sự kiện
cũng cho thấy tầm ảnh hưởng của Ấn Độ trong giai đoạn này bắt đầu bị suy giảm.
Didier Chaudet : Vì vậy,
ở đây chúng ta đang chuyển từ lý thuyết tình hữu nghị giữa hai dân tộc được giải
phóng khỏi ách thuộc địa sang một điều gì đó rất cổ điển trong quan hệ quốc tế
: Cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc lớn khi họ sống cạnh nhau. Ngạn ngữ Trung
Quốc có câu hai con hổ không sống trên cùng một ngọn núi.
Tương tự, chúng ta có hai cường quốc ở đây có chung một đường biên giới
quá lớn 3788 km và cả hai đều muốn là thủ lĩnh của Châu Á. Khi quý vị nhìn lại
cuộc chiến năm 1962, cuộc chiến này đã không giải quyết dứt điểm vấn đề đường
biên giới, nhưng cuộc chiến này sau đó khẳng định thế thống trị của Trung Quốc ở
cấp khu vực.
Trung Quốc từ đó tự khẳng định lại mình là một cường quốc ở Châu Á. Khi
chúng ta nhìn sự việc từ góc độ lịch sử, trước đó, Trung Quốc đã là một quốc
gia rơi vào tình trạng suy đồi, bị tất cả các cường quốc phương Tây ngược đãi,
tuy chưa từng bị đô hộ nhưng đã trải qua một tình huống nhục nhã như chế độ thuộc
địa với tất cả những hiệp ước bất bình đẳng. Và cuộc chiến tranh năm 1962 cùng
với chiến tranh Triều Tiên, khi Trung Quốc kháng cự sức ép từ Mỹ đã khiến thế
giới hiểu rằng Trung Quốc của Mao Trạch Đông là một cường quốc.
Vì vậy, kể từ thời điểm điều này được khẳng định, thì Ấn Độ lại bị mất
đi vị thế của mình ở bên ngoài môi trường khu vực. Ấn Độ vẫn có ảnh hưởng mạnh
mẽ tại Sri Lanka, Nepal, v.v… nhưng người ta không còn xem Ấn Độ là trung tâm
Châu Á. Nước này vẫn cố gắng đóng một vai trò quan trọng, nhưng ý tưởng về khả
năng lãnh đạo tự nhiên của Ấn Độ đã bị phai nhạt từ thời điểm đó.
*
Giai đoạn
thứ hai đi từ hậu thập kỷ 1960 cho đến năm 2000. Căng thẳng giữa hai nước tạm
thời hòa dịu. Cuộc chiến tranh 1962 ít nhiều đã "phân chia thắng bại",
vị thế cường quốc nghiêng về phía Trung Quốc, nhưng những rắc rối về biên giới
vẫn chưa thể giải quyết dứt điểm.
Didier Chaudet : Trong giai
đoạn hậu những năm 1960 cho đến năm 2000, quý vị có một thời kỳ yên tĩnh nhất định.
Trước tiên bởi vì chiến tranh đã xử lý vấn đề này, tuy không hẳn dứt điểm vấn đề
biên giới, bởi vì Trung Quốc biết rất rõ là nếu họ đẩy cuộc chiến đi quá xa,
Liên Xô rất có thể xoay qua chống lại Trung Quốc. Và điều đó thực sự là một vấn
đề cho Trung Quốc, vì nước này chưa đủ mạnh để tiến hành chiến tranh ở cả hai mặt
trận, nhưng chí ít, vấn đề về vị thế đã được giải quyết và phía Ấn Độ, thì họ tập
trung vào chính sách khu vực.
Rồi Chiến Tranh Lạnh kết thúc, thời điểm để cả hai nước Ấn Độ cũng như
Trung Quốc tập trung vào phát triển kinh tế và nhiều vấn đề khác khiến những
căng thẳng được coi là thứ yếu và đó là lý do tại sao trong giai đoạn từ đầu những
năm 80 cho đến thập niên 2000, người ta thấy Ấn Độ và Trung Quốc nói chuyện với
nhau, cố gắng cải thiện mọi việc ở biên giới, hạ nhiệt căng thẳng.
Tôi lấy ví dụ về giao thức năm 2016, quy định rằng tại những khu vực mà
binh sĩ Trung Quốc và Ấn Độ có thể gặp nhau trên cùng một vùng lãnh thổ, họ
không được phép mang vũ khí nhằm tránh sự cố dẫn đến đôi bên nã súng vào nhau…
*
Cuối
cùng là giai đoạn hậu kết thúc Chiến Tranh Lạnh. Ấn Độ đã bắt đầu có những thay
đổi sâu sắc về chính sách đối ngoại, nhất là kể từ khi đảng chính trị của ông
Narendra Modi lên cầm quyền. Một thời kỳ căng thẳng, cạnh tranh mới giữa Ấn Độ
và Trung Quốc lại mở ra.
Didier Chaudet : Nhưng thực
tế trong thời kỳ này, Ấn Độ có những biến đổi sau Chiến tranh Lạnh. Chúng ta thấy
Ấn Độ ngày càng trở nên thân Mỹ hơn, hoặc ít nhất là gần gũi với Mỹ hơn, từ bỏ
diễn ngôn xã hội hóa, trở nên tư bản hơn, cởi mở hơn với phương Tây, sẵn sàng hợp
tác với Mỹ, hợp tác với Israel.
Điều này cũng gắn liền với tiến triển ở trong nước, không chỉ về kinh tế
mà cả trong chính trị với sự trỗi dậy của đảng chính trị mới thời kỳ đó là BJT
– đảng cánh hữu. Trên thực tế, đó là một sự kết hợp giữa cánh hữu cứng rắn và
cánh hữu ôn hòa tại Ấn Độ. Ngay khi thành lập, BJT đã gắn liền với giới doanh
nhân, những người chỉ muốn kiếm tiền với Hoa Kỳ, muốn làm kinh doanh và những
người mang tư tưởng bản sắc, những người Hindu cực hữu.
-----
Trong phần II kế tiếp, chuyên gia địa chính trị các
vùng Trung – Nam Á sẽ nói về những thay đổi trong chính sách đối ngoại của
« Ấn Độ, từ phi liên kết đến đa liên kết ». Mời quý vị theo
dõi tiếp.
No comments:
Post a Comment