Có thể nói làm ra bản hiến pháp thành văn
chính là một trong những dự án đầu tiên của tất cả các chính thể do người Việt
Nam làm lãnh đạo sau thời kỳ thuộc địa. Chính quyền được xem là “bù nhìn” Trần
Trọng Kim ngay từ tháng 5 năm 1945 (tức là 1 tháng sau khi thành hình) đã có chủ
trương làm bản hiến pháp, và đến tháng 6 thì hội đồng soạn thảo hiện pháp được
thành lập. Có ít nhất một nửa thành viên trong hội đồng soạn thảo này về sau tiếp
tục nắm giữ các vị trí quan trọng trong chính quyền Dân chủ Cộng hòa sau ngày
2/9/1945. Rất tiếc, hạ màn của cuộc Đệ Nhị Thế Chiến, nạn đói ở phía Bắc, và
cao trào Cách Mạng Tháng Tám đã khiến hội đồng này không cho ra một sản phẩm
nào hoàn chỉnh.
Tương tự, chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa của Ngô
Đình Diệm cũng rốt ráo với dự án hiến pháp của mình, với một mục tiêu được ghi
nhận trong thông điệp của tổng thống cho Quốc hội lập hiến đó là xóa bỏ các dấu
tích của thực dân Pháp và phong kiến Bảo Đại, để kiến tạo một thể chế cộng hòa.
Tiếc rằng sự độc tài của tổng thống họ Ngô cũng đã khiến thể chế của chính quyền
Đệ Nhất này thuần túy là Cộng hòa với “tổng thống lãnh đạo quốc gia” chứ không
tiến đến được dân chủ.
Và tất nhiên, chính quyền Dân Chủ Cộng Hòa của
Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2/9/1945 cũng có dự án tương tự như vậy. Cho đến
nay, bản hiến pháp năm 1946 có thể được xem là bản hiến pháp lận đận khi tình
thế kháng chiến khiến cho việc phúc quyết toàn dân đối với văn kiện này đã
không bao giờ xảy ra. Vì vậy mà Quốc hội đã phải trao cho chính quyền kháng chiến
thực thi các nguyên tắc, tinh thần của Hiến pháp năm 1946 chứ không thuần túy
là thực hiện nội dung của nó. Sau kháng chiến, chính Quốc hội lập hiến ngày nào
cũng không còn quá nửa thành viên có thể tiếp tục nhóm họp ở Hà Nội. Lịch sử vì
vậy cũng đã khiến số phận của văn kiện tiến bộ bậc nhất này của lịch sử tư pháp
Việt Nam trở nên dang dở.
Nhưng dù có số phận lận đận như thế nào thì cả
ba sự kiện đều cho thấy ước vọng của người Việt (hay ít nhất là chính trị gia
người Việt ở tất cả phe phái) đều là xây dựng một bản hiến pháp và có một chính
quyền hợp hiến. Điều này cũng đồng thời đã là băn khoăn của vua Khải Định khi
ông cho vào đề thi Đình cuối cùng của lịch sử phong kiến Việt Nam câu hỏi về việc
liệu chăng đất nước nên có một bản hiến pháp để mọi thứ rành mạch, rõ ràng, và
quốc gia vì thế phát triển. Hiến pháp do vậy trong suy nghĩ của những nhà lập
quốc có lẽ có vị trí hơn là một văn kiện chính trị, hay một tuyên ngôn của đảng
cầm quyền, mà là một văn bản pháp lý, vừa soi rọi cho đất nước, vừa là sự sắp xếp
trật tự quốc gia, và vừa là bản cam kết làm tốt của một chính quyền đối với
nhân dân. Ta có thể gọi nó bằng một từ đó là chủ nghĩa hiến pháp, hoặc “hiến
thuyết” (constitutionalism).
Nói một chút về “hiến thuyết”: tại Việt Nam
ngày nay, người ta vẫn có thể nói về nó một cách khá tự do. “Hiến thuyết” hay
“hiến chính” (constitutional government – vốn ngụ ý nhà cầm quyền chấp nhận chịu
ràng buộc bởi những nguyên tắc hiến pháp) đã chính thức trở thành từ cấm kỵ, một
khái niệm sai trái của phương Tây trong quan điểm chính thức của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc. Trung Quốc cho rằng họ có thể xây dựng một bản hiến pháp mà không cần
có một chính quyền hiến pháp, và một lý thuyết hiến pháp bền vững. Tuy vậy, làm
thế nào để điều đó đứng vững thì lại là một thách thức đáng kể cho giới lý luận
chính trị Trung Quốc.
Lý thú là tại thời điểm mà kẻ thù của “hiến
thuyết” và “hiến chính” là Tập Cận Bình lên ngôi ở Trung Quốc, thì ở Việt Nam lại
là cao trào của đợt làm Hiến pháp năm 2013, khiến cho dù muốn dù không, các
quan điểm về hiến pháp đều phải được thảo luận thấu đáo. Có lẽ đó cũng là sự
may mắn của Việt Nam.
Rất dễ dàng để chỉ vào các quan điểm như “hiến
chính”, “hiến thuyết” để gán cho nó cái mác phương Tây và tẩy chay nó vì một mục
đích, ý thức hệ nào đó. Nhưng nhìn lại lịch sử thì không ai có thể chối bỏ khát
vọng có một bản hiến pháp của những người xây dựng đất nước Việt Nam hiện đại
này. Mong ước có một đất nước độc lập cần được biểu tượng, đóng gói bằng một bản
hiến pháp. Và mong ước có một bản hiến pháp chính là mong ước có một chính quyền
hợp hiến, thuận với hiến pháp. Và khi chấp nhận logic kể trên, chính là chấp nhận
xây dựng một hiến thuyết cho Việt Nam.
Những người Việt Nam đã hy sinh chính là để bản
thân người Việt Nam có quyền ngồi xuống sắp xếp trật tự chính trị cho quốc gia
mình, bằng việc xây dựng nên một bản hiến pháp. Độc lập là vậy. Ý nghĩa của
ngày Độc Lập vì thế chính là nhắc nhớ lại về nguyện vọng, tầm nhìn, khát khao,
và trật tự đã được sắp xếp đó.
No comments:
Post a Comment