Những gì
đã xảy ra ở Glasgow tại COP26?
Robert
Stavins
Trà Mi chuyển ngữ
POSTED ON NOVEMBER 15, 2021
https://dcvonline.net/2021/11/15/nhung-gi-da-xay-ra-o-glasgow-tai-cop26/
Tôi đã về cách đây vài ngày sau Hội
nghị những bên lần thứ 26 (Conference of the Parties COP26) về Công ước
khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (United Nations Framework
Convention on Climate Change, UNFCCC) tại Glasgow, Scotland.
https://assets.bwbx.io/images/users/iqjWHBFdfxIU/iIBBchTXG7CI/v0/1000x-1.jpg
Biểu ngữ quảng cáo Hội nghị COP26 về biến đổi khí hậu ở Glasgow,
Anh Quốc. Nhiếp ảnh gia: Ian Forsyth/Bloomberg
Trong bài viết hôm nay, tôi cố nhấn mạnh
– càng gọn càng tốt – những ấn tượng chính của tôi về những gì
đã diễn ra trong hai tuần tại COP26 và những suy nghĩ về những yếu
tố chính của kết quả của Hội nghị. Vì sự quan tâm của bạn đọc – và
sự thuận tiện của tôi – tôi sắp xếp phần bình luận sau đây như một
phần tiếp theo cho bài đã đăng trên blog của tôi từ vài tuần trước, “Việc gì
sẽ xảy ra tại COP–26 ở Glasgow.”
Nhưng trước tiên, tôi muốn bạn đọc thấy cái
nhìn của tôi về bản chất tổng thể và sự phát triển của những sự kiện hàng năm
này, dựa trên sự tham dự của cá nhân tôi trong hơn một chục năm. Kể từ lần
đầu tôi tham dự COP – COP13 ở Bali, Indonesia, vào năm 2007
– tôi đã mô tả những buổi gặp mặt hàng năm này tương tự như một hội nghị
ngành ống nước, trong đó nhiệm vụ cốt lõi là thương lượng một thỏa thuận
giữa những người thợ ống nước (những bên tham gia thỏa thuận) về những
tiêu chuẩn cho những thứ như chuyển từ ống kim loại kiểu cũ sang ống PVC mới
hơn. Đó là sinh hoạt động rõ ràng chính của hội nghị thợ ống nước hàng
năm, nhưng ngoài những cuộc đàm phán đó, hội nghị còn thu hút nhiều người và tổ
chức quan tâm khác (Quan sát viên) – gồm những doanh nghiệp cung cấp
và hỗ trợ những loại ống mới hơn, và những người cung cấp và hỗ trợ những phong
cách cũ hơn. Ngoài ra, có nhiều tổ chức phi lợi nhuận khác nhau ủng hộ những đường
ống mới và một số lo lắng về ảnh hưởng của việc loại bỏ dần những đường ống
cũ. Ngoài ra, một số tổ chức phi lợi nhuận là những trường đại học và những tổ
chức tư vấn thực hiện những nghiên cứu liên quan đến những cuộc đàm phán hoặc
những vấn đề rộng hơn xung quanh hội nghị. Thiển nghĩ, tôi không cần phải nêu
lên những điểm này tương tự với những gì chúng ta đã trải qua trong nhiều năm tại
COP hàng năm liên quan đến biến đổi khí hậu.
Điều gây ấn tượng nhất đối với tôi là trong
khi mười năm trước đây, tôi thấy rằng tỷ lệ chú ý (và sự tham dự) tại những hội
nghị COP hàng năm liên quan trực tiếp đến các cuộc đàm phán, theo thời gian, điều
này đã dần phát triển đến mức những chương trình bên lề đôi khi trở thành
điểm thu hút nổi bật. Như tôi giải thích bên dưới với các ví dụ cụ thể, nhiều
sự kiện nổi bật nhất tại COP và nhiều sự kiện có thể là kết quả quan trọng nhất
không liên quan đến chính những cuộc đàm phán (về Thỏa thuận Paris), mà
căn bản nằm ngoài Thỏa thuận đó, và thường xuyên nằm ngoài thẩm quyền
của COP và rộng hơn là UNFCCC .
Những vấn đề lớn ở
Glasgow
Như trong bài đã đăng trên blog trước hội
nghị COP, tôi sẽ xét đến những điểm mà tôi cho là vấn
đề lớn trong bốn loại: (1) những câu chuyện lớn đối với báo chí phổ thông; (2)
những vấn đề lớn đối với nhiều đại biểu; (3) một số vấn đề đối với người đam mê
chính sách (như bản thân tôi); và (4) những gì tôi mong đợi sẽ là “con voi
trong phòng.”
Những câu chuyện có thể là chủ đề lớn cho báo giới
Một trong những câu chuyện có thể là tựa đề lớn đối
với báo chí là một chuyện về nội dung và một câu chuyện khác về hậu cần. Thứ nhất,
về bản chất, COP này là một sự kiện đặc biệt quan trọng vì lần đầu tiên
nó thực hiện một yếu tố quan trọng của Thỏa thuận Paris – đổi mới
và có lẽ là siết chặt những
cam kết giảm khí phát thải quốc gia 5 năm một lần. Vấn đề quan trọng thực sự đã
chi phối hầu hết những câu chuyện trên báo chí sau khi COP kết thúc hôm thứ
Bẩy, ngày 13 tháng 11 (“chỉ” 24 giờ sau khi lịch trình bế mạc) là có hay
không những khoản Đóng góp do Quốc gia Quyết định (NDC) mới,
được cập nhật từ một số những nước phát thải lớn – chẳng hạn như Liên minh
Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada, Anh và Nhật Bản – kết hợp với những NDC hiện có
nhưng chưa được cập nhật từ những nước phát thải lớn khác – Úc, Trung Hoa,
Nga và Brazil – cùng đưa thế giới đang trên đà đạt được mục tiêu chính của
Thỏa thuận Paris là hạn chế sự nóng lên trong thế kỷ này ở mức 2 oC,
và tham vọng hơn nữa là chỉ 1,5 oC.
Câu trả lời, theo một báo
cáo do Liên Hiệp Quốc công bố, là ngay cả khi những mục tiêu
năm 2030 được nâng cao, thế
giới đang trên đà tăng nhiệt độ khoảng 2,7 °C trong
thế kỷ này. (Và điều này giả
định rằng mọi quốc gia đưa ra những chính sách hiệu quả sẽ đạt
được hết những mục tiêu đã đề ra.) Nếu chúng ta kể cả những tuyên bố
bổ túc (không phải là một phần của NDC theo Thỏa thuận Paris) được thực hiện
bởi nhiều quốc gia sẽ cân bằng phát thải (net–zero
emissions) vào năm 2050 (Ví dụ như EU và Hoa Kỳ), vào năm 2060 (Trung Hoa)
hoặc vào năm 2070 (Ấn Độ), sự nóng lên của thế kỷ này có thể được
giới hạn ở 2,4 oC hoặc ít nhất là 1,8 oC, nếu kẻ
cả những “cam kết” khác như vậy từ khu vực tư nhân. Để nhìn việc này
trong viễn cảnh, hãy lưu ý rằng những ước tính trước khi có Thỏa thuận Paris là
dành cho bộ chính sách và quỹ đạo hiện tại dẫn đến sự ấm lên 3,7 oC
trong thế kỷ này! Vì vậy, trong khoảng thời gian rất ngắn từ năm 2014 đến năm
2021, sự ấm lên dự đoán trong thế kỷ này đã giảm từ 3,7 oC xuống
thấp nhất là 2,4 oC hoặc thậm chí 1,8 oC.
Đó là một sự thay đổi rất quan trọng, nhưng nó
thể hiện sự thành công hay thất bại phụ thuộc vào người quan sát. Rõ
ràng, dưới mắt Greta Thunberg, người của Cuộc nổi dậy tuyệt chủng,
và nhiều người trẻ (và không quá trẻ) biểu tình bên ngoài khu vực an
toàn COP26 (“vùng xanh”), đó chỉ là “blah, blah, blah” [“hứa hẹn hão huyền”] nếu trích
dẫn lời cô Thunberg. Nhưng đối với một số chuyên viên đàm phán và một
số Quan sát viên chính thức, đó là một tiến bộ đáng kể, mặc dù không phải là
thành công cuối cùng.
Trước và trong suốt COP, Thủ tướng Boris
Johnson kêu gọi những phái đoàn tăng cao tham vọng cam kết của họ hơn
nữa về mặt NDC. Nói chung, điều này đã không thành hiện thực. Vì vậy,
Thủ tướng Anh và Chủ tịch COP của Anh, Alok Sharma, đã thay đổi lời
khuyến khích này thành một tuyên bố rằng những đại biểu nên tăng mục
tiêu đã nêu của họ vào thời điểm diễn ra COP tiếp theo vào năm 2022. Điểm này
xuất hiện trong thỏa thuận chính trị bế mạc COP26, “Quyết định” của
COP năm nay được gọi là “Hiệp
ước Khí hậu Glasgow.” Nói cách khác, ý muốn (thấy tham vọng
lớn hơn) đã bị dời mốc, với yêu cầu những Bên tham gia Thỏa thuận Paris xem xét
lại NDC của họ vào năm tới.
Một câu chuyện có thể là tựa đề khác cho
báo giới – may mắn là đã không xảy ra – là khả năng COP26 ở
Glasgow sẽ trở thành một cơn ác mộng về hậu cần, có lẽ trên ở tầm cỡ của
cuộc khủng hoảng hậu cần tại COP15 ở Copenhagen năm 2009. Năm nay có tới
20.000 người tham gia COP26 được cấp giấy chứng nhận định sẽ xuất hiện
tại địa điểm COP ở Glasgow để vào khu vực an toàn và sức chứa giảm vì COVID
có thể khiến nhiều người tham gia được cấp giấy chứng nhận không thể vào được
(hoặc phải chờ hàng giờ bên ngoài trước khi xếp hàng vào tham dự). Tôi vui
mừng nói rằng cơn ác mộng hậu cần này đã không thành hiện thực, một phần vì những
hạn chế đi lại của COVID có thể đã khiến nhiều người trong giới quan sát không
muốn tham dự. Nhưng cho tôi nói rõ hơn, lý do khác khiến cơn ác mộng
ra là nước chủ trì tổ chức COP – chính phủ nước Anh, nhưng hơn
thế nữa, hàng trăm nhân viên chủ nhà Scotland điều khiển những điểm kiểm
soát và tại những địa điểm trong suốt hội nghị COP – thật
tuyệt vời , vừa hiệu quả cao, vừa đặc biệt ấm áp và lịch sự. (Tôi thấy người
Scots ở Glasgow – dù ở COP hay ở khách sạn, nhà hàng, sân bay và taxi
– luôn thân thiện và giúp ích cho thấy rằng thành công về mặt hậu cần
là do đọng góp của từng cá nhân cũng như của những tổ chức.)
Có một vấn đề khác mà tôi dự đoán sẽ thu hút sự
chú ý đáng kể của báo chí – liệu một tuyên bố (Quyết định) sau COP từ những
Bên có cam kết toàn cầu loại bỏ việc khai thác và đốt than hay không. Tôi
nói điều này khó có thể xảy ra, bởi vì những nhà lãnh đạo của Nhóm 20 nền kinh
tế lớn tại cuộc họp trước COP ở Rome đã không đưa một tuyên bố như vậy
vào thông
cáo hậu
G20 của họ. Úc, Trung Hoa, Ấn Độ, Nga, Ả Rập Xê–út và Thổ Nhĩ
Kỳ đã phản đối. Nếu không có tín hiệu tích cực từ những nhân vật lãnh
đạo G-20, khả năng đạt được thỏa thuận về điều này ở Glasgow là rất khó xảy ra.
Tuy nhiên, điều tôi lưu ý có thể là một tuyên bố chung từ hội nghị Glasgow về
việc “giảm dần” thay vì “loại bỏ” than. Đây chính xác là những gì đã được đồng
ý trong cuộc đàm phán cuối cùng vào thứ Bảy, ngày 13 tháng 11, và được đưa
vào Hiệp
ước Khí hậu Glasgow đã đàm phán với văn bản cuối cùng kêu gọi “tăng vận tốc
nỗ lực” để giảm dần “điện than không suy giảm và loại bỏ những khoản
trợ cấp nhiên liệu hóa thạch không hiệu quả.”
Những vấn đề chính
đối với nhiều đại biểu
Khoảng 80% những phái đoàn quốc gia tham dự những
cuộc đàm phán về khí hậu là từ những nước đang phát triển (khoảng157 trên tổng
số 197), và vì vậy những vấn đề có ý nghĩa lớn nhất đối với những phái đoàn đó
là đặc biệt quan trọng. Hai điều nổi bật trong tâm trí tôi trước COP.
Một là tài
chính khí hậu, đề cập đến cam kết đã đưa ra tại Copenhagen vào
năm 2009 rằng đến năm 2020, những nước phát triển sẽ bắt đầu đóng góp 100 tỷ
USD mỗi năm cho những nước đang phát triển để giúp tài trợ cho việc giảm phát
thải khí nhà kính (GHG) và khả năng thích ứng của họ với biến đổi khí hậu.
Chúng ta sắp bước sang năm 2022, nhưng con số 100 tỷ đô la vẫn chưa thành hiện
thực, với một số ước tính đưa ra mức cam kết tổng hợp là khoảng 80 tỷ đô la mỗi
năm trong vài năm tới. Vì vậy, đó là một vấn đề rất lớn đối với những nước đang
phát triển. Một vấn đề liên quan chặt chẽ là liệu những nước phát triển có bù đắp
được khoản thiếu hụt lịch sử hay không, ngay cả khi cuối cùng đạt được 100 tỷ
USD/năm.
“Giải pháp” cho vấn đề này, được hệ
thống hóa trong Hiệp
ước Khí hậu Glasgow, là những nước giàu cần khẩn cấp tăng ít nhất gấp
đôi mức đóng góp tài chính của họ vào năm 2025 (đặc biệt là để giúp những nước
nghèo thích ứng).
Một vấn đề khác đã (và đang) là vấn đề chính đối
với một số nước đang phát triển, đặc biệt là những nước dễ bị thiệt hại nhất
do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, được mô tả trong những cuộc đàm phán là
“Tổn
thất và Thiệt hại”, vốn là một nguồn tranh cãi quan trọng trong cuộc
nói chuyện hàng năm cho mười năm qua hoặc lâu hơn. Nhóm chữ này đề cập đến
phạm vi thiệt hại liên quan đến biến đổi khí hậu, vì ngay cả khi lượng khí thải
giảm xuống 0 vào sáng mai, thiệt hại sẽ tiếp tục do thời gian trì trệ dài của
khí nhà kính (KNK) trong khí quyển, đặc biệt là CO2 với chu kỳ
bán rã trong khí quyển của nó lâu hơn 100 năm. Cuộc tranh cãi liên quan đến việc
ai sẽ là người chi trả cho những mất mát và thiệt hại đó, tập trung vào những
người chịu trách nhiệm lớn nhất về biến đổi khí hậu, cụ thể là những quốc gia
có đóng góp lớn nhất vào lượng KNK tích lũy trong khí quyển – Hoa Kỳ và những
quốc gia khác , những quốc gia giàu có, cộng với Trung Hoa.
Điều này đã gây tranh cãi bởi vì, một mặt, nó
hoàn toàn (và có thể hiểu được) được xem là điều cần thiết đối với những quốc
gia như những đảo quốc nhỏ, trong khi những quốc gia như Hoa Kỳ, Trung Hoa và
những quốc gia thành viên EU lo ngại rằng “tổn thất và thiệt hại” l bóng ma về
trách nhiệm pháp lý lảng vảng vô hạn. Thật vậy, tại một số cuộc đàm phán về khí
hậu trước khi có Thỏa thuận Paris (2015), những cuộc tranh luận về vấn đề này
khiến cuộc đàm phán gần như đổ bể. Nhưng vấn đề đã được giải quyết
trong Điều
8 của Thỏa thuận Paris, thừa nhận tầm quan trọng của tổn thất và thiệt
hại, nhưng sau đó đã loại bỏ những khía cạnh gây tranh cãi nhất trong Quyết định
52 (một văn bản đi kèm với Thỏa thuận Paris), mà Các Bên đã đồng ý rằng tổn thất
và thiệt hại “không liên quan hoặc cung cấp cơ sở cho bất kỳ trách nhiệm pháp
lý hoặc bồi thường nào.” Như người ta có thể hiểu, một số quốc gia không hài
lòng với giải pháp này, và vì vậy vấn đề lại được nêu ra ở Glasgow.
Những nước đang phát triển lên tiếng về tổn thất
và thiệt hại – lần này ủng hộ một quỹ mới để thanh toán tổn thất và thiệt hại –
nổi bật hơn bất kỳ hội nghị COP nào trước đây, nhưng cuối cùng những nước giàu
có đã chặn những đề nghị đó và thay vào đó đồng ý nói nhiều hơn về nó trong
tương lai bằng cách thiết lập “đối thoại” về vấn đề này trong những COP trong
tương lai.
Những vấn đề đối với
Giới đam mê Chính sách
Trong bài đăng trên blog trước COP, tôi đã
trích dẫn hai vấn đề mà giớI đam mê chính sách giành được – cả từ những phái
đoàn chính phủ và những tổ chức quan sát từ xã hội dân sự (như tôi) – sẽ suy
nghĩ và nghiên cứu.
Một là câu hỏi đặt ra là liệu Trung Hoa và Hoa
Kỳ có quay lại tinh thần và thực tế hợp tác vốn đặc trưng cho mối quan hệ của họ
trong những năm Obama hay không, khi những sáng kiến chung của họ là hoàn toàn
cần thiết để hoàn thành thành công Thỏa thuận Paris. Đó là trước khi sự hợp tác
như vậy biến thành sự đối đầu trong những năm thời Trump, đáng buồn là đã tiếp
tục trong năm Biden. Đôi khi có vẻ như “Nước Mỹ trên hết” đã trở thành “Sản
xuất ở Mỹ trên hết.”
Việc Trung Hoa và Hoa Kỳ có thể trở lại vị trí
đồng lãnh đạo về biến đổi khí hậu, vốn đã đặc trưng cho mối quan hệ của họ
trong những năm Obama, bất ngờ xuất hiện vào nửa tuần thứ hai của COP. Trong một
thông báo đầy kịch tính, báo chí đã được cho hay rằng Đặc phái viên khí hậu Hoa
Kỳ John Kerry và người đồng cấp Trung Hoa, Xie Zhenhua, sẽ tổ chức một cuộc
họp báo chung để tiết lộ một thỏa thuận bất ngờ nhằm giải quyết vấn đề biến đổi
khí hậu. Mặc dù đó là một diễn biến đáng hoan nghênh và ngạc nhiên khi thấy
Trung Hoa và Hoa Kỳ bắt tay và dường như hợp tác trong những sáng kiến khác
nhau, cả hai nước đều không công bố gia tăng tham vọng và hầu hết trong
giới quan sát không coi đây là sự trở lại thời kỳ cũ. của sự đồng lãnh đạo
nghiêm túc. Đặc biệt, không có ảnh hưởng rõ ràng của tuyên bố chung đối với những
hành động ở Glasgow của 195 Bên, khác trong Thỏa thuận Paris.
Một vấn đề khác mà tôi đã nói sẽ nhận được rất
nhiều sự chú ý là một phần của Thỏa thuận Paris mà “sách điều lệ” kèm theo chưa
được hoàn thiện – Điều 6. Một
chút thông tin căn bản hữu ích. Thỏa thuận Paris cung cấp một cách
tiếp cận mới mẻ, đầy hứa hẹn bằng cách thiết lập một chiến lược từ dưới lên, trong
đó tất cả những nước tham gia đều xác định những mục tiêu của riêng mình, phù hợp
với hoàn cảnh quốc gia và thực tế chính trị trong nước. Điều này đã thuyết phục
nhiều quốc gia ghi danh tham dự. Những nước tham gia Thỏa thuận Paris đại diện
cho 97% lượng phát thải KNK toàn cầu, so với 14% trong giai đoạn cam kết thứ
hai của Nghị định thư Kyoto từ trên xuống. Nhưng nó cũng tạo động lực cho mọi
quốc gia để giảm thiểu những hành động của chính mình trong khi hưởng lợi từ việc
giảm phát thải của những quốc gia khác.
Vậy, có những cách nào để thuyết phục những quốc
gia gia tăng cam kết theo thời gian? Một chiến lược quan trọng là liên
kết những chính sách quốc gia để những bên phát thải (những thực
thể tuân thủ theo chính sách quốc gia) có thể mua và bán những khoản cho phép
hoặc tín dụng phát thải carbon xuyên biên giới. Việc
liên kết như vậy không cần bị hạn chế đối với những cặp hệ thống giới hạn và
thương mại. Thay vào đó, mối liên kết không đồng nhất giữa giới hạn và thương mại,
thuế carbon và những tiêu chuẩn hiệu suất là khả thi. Liên kết
như vậy làm giảm chi phí, tạo điều kiện cho những nước tham vọng hơn. Một
nghiên cứu ước tính rằng về lý thuyết, liên kết có thể giảm 75% chi phí tuân thủ.
Nhưng để những hệ thống
như vậy có ý nghĩa, những bước đi của mỗi quốc gia phải được tính đúng vào mục tiêu
quốc gia của mình theo Thỏa thuận Paris, không tính hai lần. Đây là lúc Điều 6,
cụ thể là Điều 6.2. Viết những quy tắc cho
Điều này là nhiệm vụ chính của giới đàm phán ở Madrid (28 Điều khác đã hoàn
thành tại COP 2018 ở Katowice, Ba Lan). Thật không may, Brazil và một số quốc
gia khác khăng khăng áp dụng lỗ hổng kế toán khiến không thể đạt được thỏa thuận
tại Madrid về Điều 6. Giới đàm phán đã có cơ hội xác định hướng dẫn rõ ràng và
nhất quán để tính toán chuyển giao khí thải nhưng không thể đạt được thỏa thuận.
Mặt khác, nếu họ đã áp dụng những hướng dẫn nhảy vượt ra ngoài những quy tắc kế
toán căn bản, như một số quốc gia mong muốn, kết quả có thể là những yêu cầu hạn
chế thực sự cản trở sự liên kết hiệu quả.
Đặc biệt, ở Madrid và năm nay ở Glasgow, đã có
đề nghị đưa hai yếu tố rất có vấn đề vào Sách Điều lệ cho Điều
6.2, có thể và đơn giản là cơ sở cho những quy tắc kế toán để ngăn chặn việc
tính toán hai lần đối với việc đáp ứng những NDC khi trao đổi quốc tế. thực hiện
giữa những công ty theo thẩm quyền của mối liên kết quốc tế song phương: (a)
yêu cầu giảm lượng phát thải thực theo một số lượng cụ thể bất cứ khi nào xảy
ra trao đổi theo Điều 6.2; và (b) thuế đánh vào bất kỳ hoạt động trao đổi quốc
tế nào (để tạo quỹ thích ứng ở những nước đang phát triển). Mặc dù tham vọng
gia tăng (cắt giảm khí thải) và tạo quỹ cho những nước nghèo để thích ứng với
biến đổi khí hậu đều là những mục tiêu xứng đáng, nhưng có những phần khác của
Thỏa thuận Paris là những cơ sở thích hợp cho những điều khoản như vậy. “Thuế
đánh vào giao dịch” ngầm và rõ ràng như vậy sẽ chỉ đơn giản là làm giảm những
trao đổi như vậy, tăng chi phí và không giảm được lượng khí thải.
Vì vậy, không đạt được kết quả ở Madrid, cơ hội
hoàn thành Điều 6 đã được chuyển cho COP26 ở Glasgow. Tin tốt là Brazil
báo hiệu rằng họ có thể sẵn sàng thỏa hiệp. Hóa ra, Sác Điều lệ sau
cùng cho Điều 6 tránh điều tồi tệ nhất, mặc dù thực tế là văn bản cuối cùng
không thể được dán nhãn là bản tốt nhất có thể.
Trong thỏa thuận cuối cùng vào thứ Bẩy, một
cách tiếp cận theo hai hướng đã được thống nhất, trong đó những đề nghị tồi nhất
chỉ áp dụng cho Điều 6.4 (chương trình bù đắp dự án theo kiểu CDM từ trên xuống),
chứ không áp dụng cho Điều 6.2 (quy định tính toán cho quốc tế liên kết để
tránh tính hai lần đối với NDC). Thứ nhất, mặc dù quy định về “giảm thiểu tổng
thể phát thải toàn cầu” được đưa vào Sách Quy tắc cho Điều 6.4 dưới dạng 2% phần
bù được trao đổi bị hủy bỏ với mỗi lần trao đổi, không có quy định nào như vậy
theo 6.2. Điều này có thể phù hợp trong Điều 6.4, do những hệ thống bù đắp (tín
chỉ giảm phát thải) như vậy bị cản trở vì vấn đề thêm thắt đã biết rõ, rất có
thể những sàn giao dịch thực sự có thể dùng để tăng lượng khí thải nếu sự bù đắp
là không có thật.
Thứ hai, đề nghị “chia tiền thu được” đã được
đưa vào cơ chế của Điều 6.4 với tỷ lệ 5%, nhưng không có yêu cầu như vậy đối với
việc trao đổi Điều 6.2 (không có ý nghĩa gì, vì Điều 6.2 chỉ đơn giản là một cơ
chế kế toán, không phải là một nơi giao thương giữa những quốc gia – nếu không
thì nó sẽ tương tự như Điều 17 của Nghị định thư Kyoto, và sẽ thất bại vì những
lý do tương tự, như tôi
đã viết cách đây rất lâu với Robert Hahn).
Những quy tắc về kế toán (theo cả hai Điều 6.2
và 6.4) thông qua “điều chỉnh tương ứng” đối với NDC đã được làm rõ ràng, đó là
biện pháp bảo vệ quan trọng chống lại việc tính hai lần. Cuối cùng, yêu cầu của
Brazil về việc sử dụng Giảm phát thải được chứng nhận (CERs) của thời đại Nghị
định thư Kyoto để tuân thủ với Thỏa thuận Paris đã được chấp thuận theo cách thỏa
hiệp, chỉ cho phép những CER được sản xuất từ năm 2013 đến năm 2020 được tính
vào NDC đầu tiên (và duy nhất) của những quốc gia.
Một vấn đề khác mà tôi đã lưu ý trong bài đăng
trên blog trước đây mà những người ủng hộ chính sách đang theo dõi có liên quan
đến việc cắt giảm phát thải khí methane (CH4) trên toàn cầu – một loại
khí nhà kính cực kỳ mạnh, mặc dù thời gian tồn tại tương đối ngắn trong khí quyển.
Tôi dự đoán sẽ có một thành công trong vấn đề này ở Glasgow, bởi vì giới lãnh đạo
từ một số quốc gia quan trọng có khả năng cam kết tại COP26 sẽ cắt giảm ít nhất
30% lượng khí thải methane vào năm 2030, một mục tiêu đã được Hoa Kỳ công bố
trước đây và Liên minh Châu Âu vào tháng Chín. Hơn một chục quốc gia đã
ký hiệp ước. Về phần mình, chính quyền Biden sẽ áp đặt những quy
định tích cực đối với việc rò rỉ khí methane từ tất cả những giếng và đường ống
dẫn dầu và khí đốt hiện có trên khắp nước Mỹ, một cách giải quyết
nhiều tham vọng hơn quy định của chính quyền Obama, sau đó bị cựu Tổng thống
Trump rút lại, để điều chỉnh những giếng khoan dầu xây dựng từ năm 2015. Trên
thực tế, ngoài những cuộc đàm phán thực tế, tại Glasgow đã có hơn 100 quốc gia
đồng ý cắt giảm 30% lượng khí methane trong vòng 8-9 năm tới. Thật không may,
nước phát thải khí mehane hàng đầu thế giới, Trung Hoa, đã không tham gia cam kết
quốc tế này.
Một vấn đề quan trọng tiềm tàng khác không thực
sự liên quan trực tiếp đến COP26, mà là với thực tế là trước khi bắt đầu những
phiên họp ở Glasgow, chính
quyền Biden đã công bố một hiệp định thương mại với Liên minh Châu Âu trong đó
có khái niệm sử dụng thuế nhập cảng đối với thương mại cắt giảm lượng khí thải
carbon. Thỏa thuận này nhằm cắt giảm nhập cảng thép đặc biệt sử dụng
nhiều carbon trong sản xuất (chẳng hạn như từ Trung Hoa và Brazil). Những thỏa
thuận như vậy có thể trở thành một bổ thể rất quan trọng (hoặc thậm chí thay thế)
cho Thỏa thuận Paris. Tôi hy vọng sẽ viết nhiều hơn về thuế carbon (điều chỉnh
theo biên giới) trong một luận văn sắp tới tại blog này.
Con Voi trong
Phòng
Đối với tất cả mọi người – báo chí, những đại
biểu và giới quan sát – tôi dự đoán rằng một câu hỏi lớn ở Glasgow sẽ là liệu
NDC đầy tham vọng của Hoa Kỳ – giảm 50–52% lượng phát thải KNK vào năm 2030 dưới
mức 2005 – có
thực sự không thể đạt được với những chính sách dự tính hợp lý. Tôi
đã viết về điều này trong quá khứ, vì vậy đủ để nói rằng câu hỏi này
chỉ tập trung vào việc liệu chính quyền Biden – trong thế giới thực của nền
chính trị Quốc hội hiện tại – có thể ký ban hành đạo luật có thể đạt được những
bước tiến huy hoàng hướng tới năm 2030 ấn tượng đó không. Mục tiêu. Chính quyền
Biden đã đưa vào “dự luật hòa giải” thu nhỏ của mình một kế hoạch chi tiêu trị
giá 555
tỷ đô la gồm những khoản giảm thuế, tín dụng thuế và những khoản trợ cấp khác
cho những phương pháp tiếp cận và những loại hình sản xuất và sử dụng năng lượng
sạch, xác thực một lần nữa rằng những
chính khác Hoa Kỳ. cảm thấy thoải mái hơn khi đưa ra lợi ích hơn là đửaa
cái giá phải trả. Điều quan trọng là, những gì đáng lẽ là một chương
trình hiệu quả để tạo ra điện xanh đã bị loại bỏ, và giá phải trả để phát thải
khí methane có thể còn hoặc có thể biến mất. Thật vậy, một
kế hoạch mới của Tòa bạch Ốc để đạt được mục tiêu năm 2030 phụ
thuộc một phần vào việc loại bỏ carbon và những kỹ thuật chưa được biết đến.
Vậy chính quyền Biden có thể thực hiện được những
gì bằng những quy định và sắc lệnh hành pháp? Xem nhận xét của tôi ở phần trên
về quy tắc methane mới. Nhưng cách giải quyết bằng quy định, nói chung, đặc biệt
khó khăn vì những thách thức pháp lý từ cánh phải có cơ hội thành công
trong những năm Biden hơn nhiều so với những năm Obama, với 245 thẩm phán Liên
bang do Trump bổ nhiệm (> 25% ngành tư pháp liên bang) và đa
số bảo thủ 6–3 ở Tối cao Pháp viện.
Về vấn đề này, điều đáng chú ý là một
báo cáo gần đây từ Rhodium Group tính toán rằng ngay cả khi
phiên bản thu nhỏ của dự luật chi tiêu xã hội và khí hậu hiện nay trước khi Quốc
hội ký thành luật, hành động mới của những tiểu bang cộng với một số đáng kể những
quy tắc và quy định mới sẽ cần phải có (đối với những lĩnh vực chưa được quy định,
gồm hóa chất, khí tự nhiên và nhà máy lọc dầu) để có cơ hội đạt được mục tiêu
NDC của chính quyền Biden. Ngoài ra, những quy định về khí thải của nhà máy điện
sẽ phải nghiêm ngặt hơn so với quy định tiền nhiệm thời Obama (Kế hoạch Điện sạch),
và sẽ phải gồm cả những quy định về thu giữ và lưu trữ carbon cho những nhà máy
điện hiện có. Bất chấp tất cả những điều này, nhóm khí hậu của Tổng thống Biden
ở Glasgow đã cố gắng bảo đảm với những đại biểu rằng Hoa Kỳ đang trên đà đạt được
mục tiêu năm 2030.
Mặc dù nhiều bên mà tôi đã gặp trong hành lang
Hội nghị COP26 ở Glasgow – từ báo chí, những phái đoàn và những tổ chức quan
sát – chắc chắn nhận thức được sự mâu thuẫn này giữa nước NDC đầy tham vọng
và ấn tượng của Mỹ và thực tế chính trị trong nước, tôi rất ngạc nhiên khi thấy
rằng nhiều người hoặc hầu hết có vẻ khá vui khi gạt thực tế này sang một bên và
tiếp tục đi tới mặc nhiều vấn đề khác mà họ đang đối mặt.
Lời kết
Ngoài những bài thuyết trình của tôi tại COP26
ở Glasgow tại những gian hàng của một số quốc gia, và tham gia những cuộc họp với
những phái đoàn quốc gia, những tổ chức đa phương, những tổ chức phi chính phủ,
học giả và báo chí, Dự
án Harvard về Thỏa thuận Khí hậu đã tiến hành một cuộc hội thảo
tại COP26, do tôi điều hợp – “Bảo Đảm Tham vọng Khí hậu với những Phương pháp
Giải quyết Hợp tác: những lựa chọn theo Điều 6,” do Quỹ Enel và
Hiệp Môi trường-Luật đồng tài trợ với. Độc thêm thông tin thêm về cuộc
hôi thảo ở
đây và – quan trọng hơn – bạn đọc có thể xem video về cuộc thảo
luận đầy đủ của ban hội luận tại sự kiện này trong khu vực màu xanh của
COP26 tại đây. Như bạn
đọc thấy trong video, ngay trước khi sự kiện kết thúc như đã định, tôi đã phải
vội vàng ra sân bay cho kịp chuyến bay trở lại Boston!
Tác giả | Robert N. Stavins là Giáo sư A.J. Meyer về Năng lượng & Phát triển Kinh tế,
Trường Chính phủ John F. Kennedy, Đại học Harvard, Giám đốc Chương trình Kinh tế
Môi trường Harvard, Giám đốc Nghiên cứu Hậu Đại học cho Chương trình Tiến sĩ
Chính sách Công và Chương trình Tiến sĩ Kinh tế Chính trị và Chính phủ, Đồng Chủ
tịch Chương trình Liên kết Trường Kinh doanh Harvard-Trường Kennedy, và Giám đốc
Dự án Harvard về Thỏa thuận Khí hậu.
© 2021 DCVOnline Nếu đăng lại,
xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
Nguồn:
What
Happened in Glasgow at COP26? | Robert N. Stavins |
https://www.robertstavinsblog.org/
| 14 November, 2021.
No comments:
Post a Comment