Bảy
năm sau Sáng kiến Một Vành đai Một Con đường của Trung Hoa
David
Dollar - The Brookings Institution
Trần Giao Thủy, chuyển
ngữ
POSTED ON NOVEMBER
8, 2021
https://www.dcvonline.net/2021/11/08/bay-nam-sau-sang-kien-mot-vanh-dai-mot-con-duong-cua-trung-hoa/
Ghi chú của biên tập viên | David Dollar phác thảo ảnh hưởng mà Sáng kiến
Một Vành đai Một Con đường của Trung Hoa đã tạo ra trong bảy
năm qua, cũng như những cơ hội và thách thức địa chính trị và kinh tế rộng lớn
hơn mà nó đã đem lại cho cả Hoa Kỳ và các tác nhân trong khu vực. Bài
này được Ripon
Society (Volume 54, No. 4, October 2020) đăng đầu tiên.
Nguồn: Oriental Image qua Reuters Conne. Bản quyền:
Han Jiajun
Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Hoa đã đề
xuất Sáng kiến Một Vành đai Một Con đường (BRI) trong một bài phát biểu
vào năm 2013. Tại Kazakhstan, ông đã vạch ra tầm nhìn về việc khôi phục các đường
thương mại trên đất liền từ Trung Hoa đến Trung Á và châu Âu — “Con đường
tơ lụa” cổ đại. Tại Indonesia, ông đưa ra khái niệm “con đường tơ lụa trên biển”,
căn bản là hành lang biển vốn đã thông suốt ở phía Nam từ Trung Hoa đến
Trung Đông và châu Âu. Trong bảy năm thực hiện, dự án này đã gây ra khá nhiều
tranh cãi, đặc biệt là ở phương Tây. Cuộc tranh cãi xẩy ra vì sự thiếu
minh bạch khiến khó có được thông tin đáng tin cậy về nguồn tài chính liên
quan đến tổng thể dự án, cũng như các dự án cụ thể và các điều khoản của chúng.
Tuy nhiên, ngày càng có nhiều nỗ lực hàn lâm nhằm
thu thập và phân tích dữ liệu về BRI, với một loạt các phát giác phù hợp.
Mặc tên gọi, đó là một chương trình là toàn cầu,
không giới hạn trong hành lang cụ thể nào. Phần chính, nó là một chương
trình tài trợ xây dựng cơ sở hạ tầng. Khoảng 2/3 nguồn tài chính dành cho nguồn
điện và vận tải. Tổng số tiền tài trợ là 50-100 tỷ đô la mỗi năm. Hầu hết các
khoản vay bằng đô la theo điều kiện thương mại rộng rãi hơn các nước đang phát
triển có thể nhận được từ giới đầu tư tư nhân, nhưng đắt hơn nhiều so với
vốn từ giới tài trợ phương Tây hoặc các cơ chế ưu đãi của các ngân hàng
phát triển đa phương. Một số khách hàng lớn của Trung Hoa là các quốc gia
nổi tiếng như Iran hay Venezuela. Nhưng nhìn chung nguồn tài chính của Trung
Hoa cho những quốc gia nhận tài trợ không liên quan đến những
tiêu chuẩn dân chủ: nói cách khác, những con nợ lớn khác là các nền dân chủ như Nam
Phi, Kenya, Tanzania, Indonesia hoặc Brazil.
Một nghiên cứu của Ngân
hàng Thế giới vào năm 2019 đã xem xét các dự án giao thông dọc
theo những con đường bộ và đường hàng hải. Nó kết luận rằng có thể có những
lợi ích lớn đối với các nước nhận tài trợ và đối với thế giới nếu chi
phí vận tải có thể được giảm xuống qua việc cải thiện cơ sở hạ tầng. Nhưng
nghiên cứu cũng cho thấy rằng trong nhiều trường hợp, trở ngại về chính
sách lớn hơn trở ngại về cơ sở hạ tầng — nghĩa là, thuế nhập cảng, hạn chế đầu
tư, chậm trễ thuế quan, quan liêu, hành chánh rườm rà và tham nhũng thường
làm tăng chi phí thương mại một cách đáng kể. Điểm rõ ràng từ nghiên cứu này là
cải thiện môi trường đầu tư là một bổ túc cần thiết cho đầu tư vào cơ sở hạ
tầng. Một cách thực tế để làm điều này là qua các hiệp định thương mại sâu rộng
như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương gồm một số nền kinh tế đang phát
triển quan trọng như Colombia, Malaysia, Peru và Việt Nam. Mỹ, lẽ ra, có
thể gắn bó chặt chẽ hơn với nhóm các nền kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
này với hệ thống của chúng ta nhưng [Donal Trump, tổng thống thứ 45 của] Mỹ
đã rút ra, đứng ngoài. Trong khi đó, Trung Hoa đã đạt được thỏa thuận tự
do hóa thương mại giữa các nước ASEAN, Nhật Bản, Nam Hàn, Australia và New
Zealand. Đây không phải là một thỏa thuận thương mại sâu sắc, nhưng nó loại bỏ
thuế nhập cảng đối với các bộ phận và linh kiện và đặt nền tảng cho chuỗi giá
trị châu Á không có Mỹ.
BRI đặt ra một số vấn đề đối với Mỹ. Giới
chức chính phủ Hoa Kỳ đã chỉ trích chương trình này là “ngoại giao bẫy nợ”.
Nỗi sợ hãi này dường như được phóng đại. Hầu hết các quốc gia vay của Trung
Hoa cũng vay từ các nhà tài trợ phương Tây, các ngân hàng đa phương và các
chủ nhân của trái phiếu tư nhân. Họ có nguồn tài chính đa dạng, và không
có lý do gì để nghĩ rằng họ đặc biệt chú ý đến Trung Hoa. Trường hợp ngoại lệ sẽ
là các quốc gia cùng khổ, và trong việc phát triển chiến lược đối phó với
Venezuela hoặc Iran, điều quan trọng là phải tính đến các khoản đầu tư và lợi
ích của Trung Hoa ở đó.
Mặc dù khó có thể tìm thấy bằng chứng về ngoại
giao bẫy nợ, nhưng có những lo ngại thực sự về tính bền vững của nợ liên quan đến
tất cả các bên cho vay. Nợ nước ngoài khác với nợ trong nước ở chỗ cuối cùng nó
phải được trả qua xuất cảng và có những giới hạn rõ ràng về số nợ mà các
nước nghèo có thể gánh chịu. Hơn nữa, đại dịch và suy thoái khiến nhận thức về
tính bền vững có thể thay đổi nhanh chóng như thế nào. Theo phân tích của IMF,
trước COVID-19, hầu hết các nước đang phát triển có vẻ tốt về tính bền vững của
nợ. Nhưng suy thoái kinh tế đang có ảnh hưởng tàn phá đến GDP và xuất cảng.
Trong số các khách hàng chính của Trung Hoa ở châu Phi, phần lớn hiện đang
lâm vào cảnh túng quẫn hoặc có nguy cơ lãnh nợ cao. Trung Hoa đã cùng
các nước G20 khác đưa ra lệnh cấm thanh toán nợ cho các nước nghèo trong năm
2020. Đối với 15 khách hàng lớn của Trung Hoa ở châu Phi, tỷ lệ thanh toán
nợ năm 2020 của họ là khoảng 1/3 — một
con số cho thấy tầm quan trọng của tài chính Trung
Hoa nhưng cũng như các chủ nợ chính thức khác và khu vực tư nhân thậm chí
còn quan trọng hơn. Sự tham gia của Trung Hoa trong việc cắt giảm nợ là điểm
tích cực, mặc dù đó chỉ là một bước nhỏ đầu tiên vì lãi suất sẽ tích
lũy và gánh nặng nợ tăng lên. Một số quốc gia có khả năng cần tái cơ cấu hoặc
xóa nợ, thường được tổ chức thông qua Câu lạc bộ Paris, mà Trung
Hoa không phải là thành viên. Mỹ quan tâm đến việc lôi kéo Trung
Hoa vào Câu lạc bộ Paris và hợp tác với Trung Hoa trong việc xóa nợ để
bảo đảm rằng không có một vòng khủng hoảng nợ mới nào làm tê liệt thế
giới đang phát triển.
Mỹ đã đưa ra một tổ chức tài chính phát triển
mới để cạnh tranh với Trung Hoa. Cung cấp cho các nước đang phát triển nhiều
nguồn tài chính hơn là một chiến lược khôn ngoan, nhưng chính sáng kiến này
có lẽ sẽ không thay đổi được bức tranh nhiều lắm. Các nước đang phát triển đã
có nhiều nguồn tài trợ khác nhau. Họ thích dùng nguồn tài chính của Trung
Hoa cho các dự án lớn về giao thông và năng lượng vì những lý do cụ thể.
Nguồn vốn tư nhân quá đắt và ngắn hạn (thường tối đa là 5 năm). Các nhà tài trợ
phương Tây và các ngân hàng đa phương của họ viện trợ không hoàn lại hoặc cho
vay với những điều khoản đặc biệt hào phóng. Nhưng những nhà tài trợ truyền
thống này thích tài trợ cho các dịch vụ xã hội, hành chính, thúc đẩy dân chủ —
họ đã thoát ra khỏi những dự án về cơ sở hạ tầng gần như hoàn toàn.
Trong những ngày đầu thành lập, 70% tài trợ của Ngân hàng Thế giới là dành cho
cơ sở hạ tầng kinh tế; bây giờ, nó là khoảng 30%. Liên quan đến vấn đề đó, việc
làm cơ sở hạ tầng lớn với các nhà tài trợ phương Tây rất quan liêu và tốn thời
gian; về căn bản, các nước nghèo phải tuân theo các quy định của thế giới
thứ nhất. Vì vậy, các quốc gia đó (chọn) phân bổ hợp lý để cho Trung
Hoa làm về giao thông và điện lực, các nhà tài trợ phương Tây làm ở
những lĩnh vực xã hội, và các chủ trái phiếu tư nhân để cung cấp
tài chính ngân sách chung, ngắn hạn.
Sáng kiến Một Vành đai Một Con đường của Trung
Hoa. Nguồn: Asia Briefing Ltd.
Tóm lại, một phản ứng hiệu quả hơn đối với BRI
từ phía Hoa Kỳ sẽ: nắm lấy các hiệp định thương mại sâu rộng mới có thể cải thiện
môi trường đầu tư ở các nước đang phát triển và gắn kết những nước đó chặt
chẽ hơn với Hoa Kỳ; dẫn đầu một cuộc cải cách các ngân hàng đa phương và tổ chức
tài chính mới của nó sẽ hợp lý hóa dải băng đỏ (quan liêu hành
chánh) xung quanh các dự án cơ sở hạ tầng và cung cấp một giải pháp thay
thế hấp dẫn hơn; hạ thấp luận điệu chống Trung Hoa; và khuyến khích
Trung Hoa minh bạch hơn và đưa ra các điều khoản hào phóng hơn cũng như
tham gia vào việc xóa nợ khi cần thiết.
*
Tác giả | David
Dollar là chuyên viên nghiên cứu cao cấp — Chính sách đối ngoại, Kinh
tế toàn cầu và Phát triển, Trung tâm Trung Hoa John L. Thornton
© 2021 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể
lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Seven years into China’s Belt and Road | David
Dollar | The Brookings Institution | Oct. 1, 2020.
No comments:
Post a Comment