Tuesday, July 7, 2020

NGÔI SAO KHUÊ KHI TỎ KHI MỜ (Phạm Đình Trọng)




Phạm Đình Trọng
07/07/2020

1. CẢM HỨNG ANH HÙNG CA

Một buổi chiều tôi đang ngồi với nhà văn Vũ Bão ở 65 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, tòa soạn báo Điện Ảnh Việt Nam thuộc bộ Văn Hóa Thông Tin mà Vũ Bão là Phó Tổng biên tập, kiêm trưởng ban Biên tập thì người đàn ông mái tóc bồng bềnh nghệ sĩ, áo sơ mi trắng, cà vạt xanh, bên sườn đeo chiếc máy ảnh nhỏ như vừa bước ra từ một cuộc tiếp khách nào đó đến gặp Vũ Bão. Đó là Trần Khuê, giảng viên ngữ văn trường Cao đẳng Sư phạm Sài Gòn. Vũ Bão nói tên tôi. Trần Khuê thân mật choàng tay ghì vai tôi vào người ông và bảo: Ồ, Trọng đây à? Ngay lập tức ông đưa máy ảnh cho Vũ Bão nhờ bấm cho ông và tôi bức hình chung.

Năm đó khoảng 1983 – 1984, Hà Nội còn đi xe đạp và tôi còn làm biên kịch Xưởng Phim Quân Đội nhưng Vũ Bão vẫn thường dành đề tài viết cho tôi, coi tôi như người trong ban biên tập của ông. Chưa có điện thoại cá nhân. Cần viết về phim nào, nhân vật nào, ông lại lóc cóc đạp xe từ 65 Trần Hưng Đạo, hoặc từ nhà ông, 90 ngõ Quỳnh, Bạch Mai đến nơi tôi ở trong khu nhà mênh mông Xưởng Phim Quân Đội, số 17, phố nhà binh Lý Nam Đế rồi mỗi người một xe đạp, đạp đến hãng phim truyện Việt Nam, số 4 Thụy Khuê, xem bộ phim mới sắp công chiếu. Đến Hàng Ngang gặp nhà quay phim lão làng Nguyễn Đăng Bảy. Đến Nhà Hát Kịch Việt Nam sau Nhà Hát Lớn gặp Lâm Tới vừa từ Sài Gòn ra …

Hôm gặp Trần Khuê, vẫn hai chiếc xe đạp cà tàng nhưng xe tôi chắc chắn, khỏe khoắn hơn nên tôi chở Trần Khuê đi thong dong bên Vũ Bão đến bãi bia hơi vỉa hè Cổ Tân cạnh Nhà Hát Lớn, nơi chiều chiều họp mặt khá nhiều gương mặt văn nghệ sĩ Hà Nội.

Năm 1993, tôi đã vào ở hẳn trong Sài Gòn và Vũ Bão đã nghỉ hưu. Một hôm đột ngột Vũ Bão đến tìm tôi ở Sài Gòn rủ tôi tham gia viết tập sách về truyền thống cách mạng huyện Hóc Môn. Trong đoàn do Vũ Bão tập hợp về Hóc Môn làm sách có cụ Lê Phải là dân gốc Thủy Nguyên, Hải Phòng nhưng là người lính cầm súng đánh Pháp ở Sài Gòn từ năm 1945. Nay cụ Phải là trung tá quân đội về hưu. Đương nhiên đến mảnh đất nơi Trần Khuê đang sinh sống, Vũ Bão không thể quên Trần Khuê. Lúc đó Trần Khuê làm việc ở trung tâm nghiên cứu Hán Nôm thuộc viện Khoa học Xã hội Sài Gòn và tên Trần Khuê luôn xuất hiện cùng với tên Nguyễn Thị Thanh Xuân. Vì vậy tham gia viết sách về Hóc Môn cùng với anh Trần Khuê còn có chị Nguyễn Thị Thanh Xuân cũng là người ở viện Khoa học Xã hội Sài Gòn.

Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Hóc Môn Lê Minh Phong dẫn chúng tôi đến khách san bên quốc lộ Một, xã Đông Hưng Thuận. Ba bữa ăn sáng, trưa, chiều chúng tôi từ khách sạn lững thững thả bộ ra nhà hàng Cần Phong ở đường Quang Trung. Nay nhà hàng Cần Phong vẫn còn. Đây là khoảng thời gian tôi được gần gũi 24/24 giờ trong ngày hai bậc đàn anh chữ nghĩa đầy mình, nhà văn Vũ Bão sinh năm 1931 và nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Khuê vốn là thầy giáo dạy văn, sinh năm 1936.

Hóc Môn là chiếc nôi của phong trào cộng sản ở Nam Kỳ, nơi có làng Đỏ mười tám thôn vườn trầu Bà Điểm như là bản doanh của Xứ ủy Nam Kỳ. Làng Đỏ vườn trầu Bà Điểm có những cơ sở trung kiên là những bà mẹ cả đời không ra khỏi làng nhưng mở lòng che chở, nuôi giấu những người cộng sản đến từ mọi miền đất nước: Phan Đăng Lưu, đại diện trung ương đảng cộng sản ở Nam Kỳ, Võ Văn Tần rồi Tạ Uyên lần lượt là bí thư xứ ủy Nam Kỳ, Năm Bắc Nguyễn Thị Minh Khai, bí thư Sài Gòn – Chợ Lớn. Những cuộc họp của xứ ủy Nam Kỳ bàn thảo mưu đồ tiến hành cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940 cũng diễn ra trong sự che chở bao bọc của người dân làng Đỏ vườn trầu Bà Điểm. Cụ Lê Phải viết về địa chỉ đỏ này và tên bài viết của cụ trở thành tên chung của cả tập sách Hóc Môn Hương Trầu Quê Mẹ. Lúc đó cả Vũ Bão, Trần Khuê và tôi viết tập sách Hóc Môn Hương Trầu Quê Mẹ đều với cảm hứng anh hùng ca. Ca ngợi con người cộng sản. Ca ngợi phong trào cộng sản. Ca ngợi cuộc chiến tranh không xót máu dân do những người cộng sản quyết liệt tiến hành.

2. KHOẢNG SÁNG. KHOẢNG TỐI

Năm 2001, tôi được anh Trần Khuê tặng hai tập sách khổ giấy A4: Đối Thoại 2000 và Đối Thoại 2001 với tên tác giả là Trần Khuê – Nguyễn Thị Thanh Xuân. Giọng văn hào sảng, Đối Thoại đòi hỏi dân chủ hóa đời sống xã hội. Đòi xoá bỏ điều 4 Hiến pháp để trả quyền làm chủ đất nước cho người dân. Với lí lẽ đầy thuyết phục, Đối Thoại mạnh mẽ đòi thực hiện đúng di chúc Hồ Chí Minh, đốt xác để Hồ Chí Minh được thỏa nguyện mong ước, để thuận với qui luật tự nhiên và để chấm dứt một lỗ thủng lớn của túi tiền ngân sách nhà nước khi mỗi năm phải chi hàng trăm tỉ tiền thuế dân, nuôi cả một bộ tư lệnh đồ sộ với một đống tướng, tá đông đúc chỉ huy một đội lính kiểng chỉ để trông coi một ngôi mộ. Ngôi mộ đó lại lù lù yểm âm khí giữa thủ đô đất nước thì đất nước đó làm sao có sinh khí mà phát triển, mở mang. Những luận cứ sắc sảo và dũng cảm của Trần Khuê chỉ ra những sai trái, tội lỗi với dân của nhà nước cộng sản chính là khoảng sáng vằng vặc của ngôi sao Khuê họ Trần.

Sống trong tuyên truyền cộng sản nhưng càng từng trải cuộc đời càng phải thoát ra khỏi tuyên truyền lừa dối để càng ngày càng thức tỉnh về những đau đớn mất mát của giống nòi Việt Nam trong tai ương cộng sản. Nhưng vẫn như gần mười năm trước khi Trần Khuê tham gia viết Hóc Môn Hương Trầu Quê Mẹ, vẫn với cảm hứng anh hùng ca Đối Thoại nhắc đến những công lao, những dấu ấn tốt đẹp của đảng Lao động rồi nằng nặc đòi đảng cộng sản trở về với tên đảng Lao động Việt Nam và tên nước phải trở về với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Đảng cộng sản dù mang tên đảng Lao Động hay tên gì đi nữa vẫn là đảng độc tài thâm căn cố đế thì xã hội không thể có tự do, dân chủ. Đòi dân chủ hóa xã hội, đòi bỏ điều 4 Hiến pháp nhưng lại coi đảng Lao động là tốt đẹp, đòi đảng cộng sản đương quyền trở lại tên đảng Lao Động Việt Nam là trái tim Trần Khuê, tâm hồn Trần Khuê vẫn gửi gắm, tin tưởng, trông đợi ở đảng của Hồ Chí Minh. Trong các bài viết, trong lời nói, trong sâu thẳm tình cảm, Trần Khuê vẫn coi đảng Lao động của Hồ Chí Minh là đúng đắn, tốt đẹp, cần thiết cho đất nước. Sự đúng đắn, tốt đẹp đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng 30.4.1975 rạng danh dân tộc Việt Nam. Chỉ có đảng cộng sản là sai trái, hư hỏng. Với triệu chứng lâm sàng ở Trần Khuê, có thể thấy Trần Khuê cũng vẫn trong số khá đông người dân Việt Nam chưa thoát khỏi cơn hôn mê, ngộ độc tuyên truyền cộng sản.

Xin hãy nhìn những đảng cộng sản trên thế giới dù mang tên đảng Lao Động như Bắc Triều Tiên, hay mang tên đảng Công Nhân Thống Nhất như Ba Lan, có đảng nào không độc tài? Có xã hội nào có tự do dân chủ? Đảng Lao động Việt Nam tốt đẹp mà sắt máu làm cải cách ruộng đất giết hại hàng trăm ngàn người dân biết tổ chức sản xuất giỏi tạo ra hạt gạo nuôi no đủ cả nước, tạo ra sự ổn định, bền vững của làng quê Việt Nam. Đảng Lao động tốt đẹp mà giam cầm trong ngục tù, giam cầm tại nhà đến thân tàn ma dại hàng trăm trí thức, những tài năng lớn nhất của tinh hoa, khí phách Việt Nam trong những vụ án ngụy tạo xét lại, Nhân Văn Giai Phẩm . . . Vẫn tin vào đảng của những người cộng sản là vẫn tin vào học thuyết cộng sản đầy tội ác. Một khoảng mờ của ngôi sao Khuê họ Trần.

Trần Khuê thấy được giữ lại thi thể Hồ Chí Minh trong hòm kính dù đặt trong nhà hầm vẫn là tênh hênh trên mặt đất, là không thuận ý nguyện cuối cùng, ý nguyện thiêng liêng nhất của người chết, không thuận qui luật tự nhiên, là đày đọa thân xác người quá cố và tạo ra cái thùng không đáy ngốn tiền mồ hôi nước mắt dân. Nhận ra những cái có hại sờ sờ như vậy, Trần Khuê đòi đốt xác Hồ Chí Minh nhưng hồn vía Trần Khuê vẫn thuộc về Hồ Chí Minh.

Trần Khuê đề xuất nhân 100 năm sinh Hồ Chí Minh, năm 1990 phải được vinh danh là Năm Hồ Chí Minh. Trần Khuê phê phán, đay nghiến năm 1990 lại là năm Du lịch chứ không phải năm Hồ Chí Munh. Trong hơn chục đề mục được treo ngay trang bìa website trankhue.net, có tới bốn đề mục về Hồ Chí Minh: Nghị quyết UNESCO về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh: Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói thẳng về quyền bình đẳng của phụ nữ. Từ thiền Đại Việt đến thiền Hồ Chí Minh. Trang nhất trankhue.net luôn được cập nhật những bài viết mới nhưng bốn câu tụng Hồ Chí Minh thì được đóng đinh cố định trên cao nhất trang chủ từ khi có trang web đến nay:

Bác Hồ quở mắng anh Ba
Sau vụ Giá – Lương – Tiền
Dân quá khổ kêu trời không thấu
May sao vọng tới Bác Hồ

Việc làm, đường lối, chủ trương của anh Ba Duẩn, người đổi tên đảng Lao động của Hồ Chí Munh thành đảng Cộng sản chỉ mang lại đau khổ cho dân. May quá, dân Việt Nam còn có bác Hồ! Dù bác đã chết nhưng hồn thiêng của bác còn về quở mấng, nhắc nhở anh Ba.

Trong Đối Thoại, trong các bài viết khác, trong chuyện trò, Trần Khuê luôn bộc lộ lòng ngưỡng mộ cuộc đời hoạt động Hồ Chí Minh đã vượt qua mọi thác ghềnh lịch sử, đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi nô lệ thực dân Pháp.

Người đọc nhiều, biết rộng, uyên bác kim cổ như Trần Khuê sao lại chưa thấy được rằng con đường tất yếu của văn minh công nghiệp phải đi từ tư bản hoang dã đến tư bản nhân văn. Thời hoang dã, tích lũy tư bản bằng bóc lột sức lao động người dân trong nước và xâm chiếm thuộc địa, nô dịch dân và vơ vét tài nguyên thuộc địa. Việt Nam tăm tối trong nền sản xuất nông nghiệp cổ lỗ trở thành thuộc địa của nước Pháp công nghiệp văn minh là qui luật xã hội tất yếu, là định mệnh của số phận dân tộc tạo ra nền văn minh lúa nước.

Quá trình tích lũy tư bản cũng là quá trình phát triển khoa học kĩ thuật. Khoa học kĩ thuật phát triển đã mang lại lợi nhuận vô cùng mau lẹ và to lớn cho nhà tư bản. Lợi nhuận tư bản có được không phải từ bóc lột sức lao động nữa mà từ khoa học kĩ thuật, từ tài năng nhà tư bản. Sự bóc lột, ngược đãi với con người, với thiên nhiên trở thành tội ác trong luật pháp xã hội tư bản văn minh và bị hiến chương Liên Hợp Quốc lên án, loại bỏ. Quyền con người của mỗi cá thể và quyền tự quyết của mỗi dân tộc được coi trọng hàng đầu trong xã hội tư bản văn minh. Thời tư bản nhân văn đã thực sự đến với loài người. Đánh dấu thời tư bản nhân văn, ngày 1.4.1960, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ra Nghị quyết 1514 đòi các nước có thuộc địa phải trao trả độc lập cho các nước thuộc địa. Đi trước nghị quyết của Liên Hợp Quốc từ 1947, nước Anh đã trả độc lập cho thuộc địa Ấn Độ. Dù có nấn ná, trì hoãn thì đến giữa thế kỉ 20, Pháp cũng phải trả độc lập thực sự cho thuộc địa Việt Nam. Đó là tất yếu lịch sử.

Đau đớn, oan nghiệp cho dân Việt Nam là đảng cộng sản đưa dân tộc Việt Nam đi con đường ngập trong máu để giành độc lập, tưởng như nền độc lập đã có từ năm 1945 nhưng đến nay sang năm thứ hai mươi thế kỉ 21 rồi, Việt Nam vẫn chưa có độc lập thực sự. Mỗi lần đảng cộng sản chia chác nhau chiếc ghế quyền lực trong đảng, chia chác nhau chiếc ghế lãnh đạo nhà nước đều phải thỉnh ý đảng Tàu Cộng thì độc lập nỗi gì! Đảng cộng sản Việt Nam phải theo lệnh Tàu Cộng, gạt bỏ một trí tuệ, một khí phách Việt Nam là Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi vị trí lãnh đạo đất nước thì độc lập nỗi gì!

Dù Hồ Chí Minh có đưa Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ thực dân Pháp nhưng lại tròng vào cổ dân Việt Nam ách nô lệ cộng sản còn tối tăm, man rợ gấp nhiều lên nô lệ thực dân để rồi đến đầu thế kỉ 21 trí tuệ Trần Khuê còn phải viết Đối Thoại 2000 và Đối Thoại 2001 đòi tự do, dân chủ. Đất nước Việt Nam do máu người Việt Nam tạo dựng lên. Tổ tiên người Việt Nam là Bà Trưng, Bà Triệu, là Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung. Vậy mà khi giã từ cuộc sống trần thế trở về với tổ tiên, trở về với đất Mẹ Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ tâm nguyện trở về với Karl Marx, với Lénine.

Sắt son với con người rước họa cộng sản về đày đọa người dân Việt Nam, thờ phụng con người mất gốc không còn hồn Việt Nam là khoảng mờ rất đáng tiếc của ngôi sao Khuê họ Trần.

3. HỘI NHÂN DÂN CHỐNG THAM NHŨNG

Cuối tháng bảy, 2001, anh Trần Khuê cùng chị Nguyễn Thị Thanh Xuân ra Hà Nội xúc tiến việc thành lập hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng. Anh Khuê, chị Xuân đến gặp gỡ những tên tuổi Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang . . . và bàn định cương lĩnh, bước đi của một hội chính danh, hợp pháp, từ đăng kí, xin chính quyền công nhận đến nội dung hoạt động. An ninh nhà nước cộng sản tuy không nhận thức được rằng nhà nước cộng sản và tham nhũng là hai quái thai dính liền nhau nhưng họ hiểu rõ chỉ có quyền lực nhà nước mới có thể tham nhũng. Giương ngọn cờ chống tham nhũng là ngang nhiên tập hợp lực lượng chống nhà nước cộng sản. Từng bước đi của hai công dân gấp gáp, đôn đáo cho ra đời hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng không thể thoát ra ngoài tầm kiểm soát của mạng lưới an ninh cộng sản dày đặc.

Đần tháng chín, 2001, đại tá về hưu Phạm Quế Dương, nguyên Tổng biên tập tạp chí Lịch Sử Quân Sự dẫn chị Cư, vợ anh đi chơi Sài Gòn vì chị Cư chưa một lần được đến thành phố một thời là Hòn Ngọc Viễn Đông. Chuyến đi của anh Phạm Quế Dương, người có tên trong hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng của anh Trần Khuê, đương nhiên bị an ninh cộng sản theo sát từng bước. Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng quá chính đáng và cần thiết. Hội đã làm đơn xin phép để được chính quyền công nhận. Đàng hoàng, chính danh như vậy, anh Phạm Quế Dương cứ hồn nhiên dẫn chị Cư đến nhà thăm vợ chồng anh Trần Khuê. Cuộc thăm viếng vui vẻ nhưng khi vợ chồng anh Phạm Quế Dương ra ga xe lửa trở về Hà Nội liền bị công an Sài Gòn bắt đưa về số 4 Phan Đăng Lưu, Phú Nhuận khám xét. Một bà già ngoài 60 tuổi, vợ một đại tá bộ đội cụ Hồ phải lột cả quần lót cho công an thành Hồ khám xét! Thô bạo, quyết liệt, an ninh nhà nước cộng sản quyết bóp chết từ trong trứng nước hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng của nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Khuê. Cuối năm 2001, ra Hà Nội, đến thăm anh Phạm Quế Dương, tôi mới được chị Cư kể cho nghe chuyện chuyến đi chơi Sài Gòn của chị bị an ninh cộng sản xúc phạm ê chề.

Một chiều cuối tháng chín, 2001 tôi tình cờ ghé 296 Nguyễn Trãi, quận 5 thăm anh Trần Khuê vì đã lâu tôi không gặp anh. Chủ khách vừa yên chỗ thì một thiếu tá công an cùng một đám người mặc đồ dân sự xộc vào phòng anh Khuê và tôi ngồi. Không giới thiệu chức danh, nhiệm vụ, không hỏi một lời về con người công dân của tôi, câu đầu tiên viên thiếu tá công an đã yêu cầu tôi về đồn công an làm việc. Tôi thẳng thừng từ chối. Tôi không có vướng mắc gì cần làm việc với công an. Công dân đến thăm công dân là bình thường, hợp pháp, là quyền con người. Các anh đột nhập bất hợp pháp vào nhà công dân, các anh phải ra khỏi nhà. Nói rằng ông Khuê đang phải quản chế hành chính hai năm, viên thiếu tá đọc làu làu số quyết định quản chế hành chính 6494/QĐUB ngày 10 tháng chín năm 2001 của Ủy ban Nhân dân thành phố rồi một mực yêu cầu tôi về cơ quan công an để làm rõ hành vi tiếp xúc với người bị quản chế.

Tôi chợt hiểu ra vì ráo riết vận động thành lập hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng, anh Khuê đã bị nhà nước cộng sản quản chế hành chính hai năm. Tôi bảo viên thiếu tá rằng quyết định quản chế hành chinh với ông Trần Khuê, đâu phải quản chế hành chinh với tôi. Là công dân tự do, tôi có quyền đến bất cứ đâu trên lãnh thổ Việt Nam. Cuộc viếng thăm của tôi bị phá, tôi đành ra về nhưng viên thiếu tá công an cũng không cho tôi về.
Buổi chiều bị giữ ở nhà anh Trần Khuê, tôi cứ cay đắng nghĩ đến cái bánh vẽ Hiến pháp. Là người dành cho mình quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tôi luôn ghi nhớ điều Hiến pháp bảo đảm quyền đó cho người dân. Hiến pháp nhà nước cộng sản Việt Nam đã nhiều lần viết lại nhưng lần viết lại nào cũng có điều ghi nhận quyền con người, quyền công dân cốt lõi về tự do ngôn luận, tự do lập hội. Tôi nhớ rõ điều 69 Hiến pháp 1992 đương có hiệu lực là: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.” Hiến pháp cho người dân quyền tự do lập hội nhưng thày giáo dạy văn, nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Khuê vừa thảo văn bản, rục rịch xin phép lập hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng liền bị quản chế, tù tại nhà hai năm!

4. VẦNG SÁNG ĐỂ LẠI

Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng ra đời đầu năm 2014. Mãi đầu năm 2020, nhà nghiên cứu Trần Khuê mới đến với câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng như một vị khách mời, như một thành viên danh dự. Sáng 25.6.2020, lần thứ ba đến với những người cùng ý chí với Lê Hiếu Đằng, Trần Khuê mang theo bịch sách Đối Thoại để tặng những ai chưa có sách của ông. Tặng gần hết bịch sách rồi Trần Khuê xin có lời.

Mái tóc bồng bềnh tôi gặp ở Hà Nội hơn ba mươi năm trước nay càng bồng bềnh hơn vì tóc để dài hơn, cuồn cuộn như sóng bạc đầu và trắng lênh đênh như mây trời. Giọng Trần Khuê vốn sang sảng hủng hồn của một thầy giáo giảng dạy văn chương. Vẫn mạch lạc và khúc triết nhưng sáng 25.6.2020 giọng không còn âm vang mạnh mẽ mà mỏng mảnh, chìm nổi như tiếng gió thoảng, Trần Khuê nói về vụ Đồng Tâm:

– Huân chương chiến công là để ghi nhận công lao của những chiến sĩ lập công xuất sắc trong chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, chống kẻ thù của nhân dân. Ông Nguyễn Phú Trọng vốn nho nhã, thận trọng sao lại hấp tấp kí quyết định tặng huân chương chiến công cho ba công an chết trong trận công an giữa đêm tấn công vào dân làng Hoành. Đánh vào dân mà là chiến công thì ông Nguyễn Phú Trọng coi nhân dân là kẻ thù sao?

Tuy chưa nói thẳng ra nhưng phát biểu của nhà nghiên cứu Trần Khuê là lời phủ nhận mạnh mẽ nhà nước cộng sản đương quyền. Coi nhân dân là kẻ thù thì đảng của ông Nguyễn Phú Trọng, nhà nước của ông Nguyễn Phú Trọng đã thực sự không còn một chút chính danh nào nữa.

Vừa dừng lời giây lát bỗng bàn tay phải Trần Khuê đưa lên giẫy giật nhẹ và đầu lả ra thành ghế phía sau. Mọi người xúm lại làm động tác cấp cứu cho người đột quỵ. Nhưng Trần Khuê đã nhẹ nhàng đi vào cõi vô tận trong vòng tay những người mang tinh thần Lê Hiếu Đằng. Chuyến đi vào vô tận của người cả đời làm việc với chữ nghĩa càng nhẹ nhàng hơn khi ông đã đăng kí hiến xác cho khoa học, hiến xác cho trường đại học Y Sài Gòn.

Buổi sáng đưa tiễn nhà nghiên cứu Trần Khuê đi vào khoa học, đi về phòng thí nghiệm trường đại học Y Dược Sài Gòn. Buổi tối ngồi vào bàn làm việc thật bất ngờ tôi lại gặp Trần Khuê.

Bắt đầu buổi làm việc tối bằng việc mở hộp thư điện tử, tôi nhận được email của ông bạn cùng học trường cấp ba Thái Phiên Hải Phòng hơn nửa thế kỉ trước, ông bạn Hà Văn Thùy. Nay bằng những phát hiện khảo cổ, bằng gien di truyền Hà Văn Thùy đã cặm cụi, miệt mài lần tìm cội nguồn loài người, cội nguồn nòi giống người Việt Nam. Sau hai tập sách dày đã xuất bản, xuất bản tập sách thứ ba, Tiền Sử Người Việt, ông bạn Hà Văn Thùy xoa tay nói rằng ông đã giải quyết xong việc truy tìm cội nguồn gốc gác con người và văn hóa Việt Nam. Giải thoát người Việt khỏi cái bóng Trung Hoa. Từ châu thổ sông Hồng, người Việt thiên di lên phía Bắc, sinh sản đông đúc và tiếp tục thiên di, làm nên phần lớn loài người, làm nên nền văn hóa rực rỡ phương Đông. Tiếng Việt là chủ thể làm nên ngôn ngữ Trung Hoa. Chữ Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa.

Email của ông bạn từ thời học phổ thông Hà Văn Thùy hớn hở cho biết rằng giải quyết xong cái chung cội nguồn văn hóa Việt Nam, đi vào những điều cụ thể của gia tài văn hóa đó, Hà Văn Thùy đang chưa xác định được Thái Tổ, Thái Tông trong câu ca dao dân gian Đời vua Thái Tổ, Thái Tông / Lúa mọc đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn. Hai vua đầu, Thái Tổ, Thái Tông nhà Lê rối ren từ trong hoàng cung ra xã hội thì không thể có cảnh thái bình yên vui lúa mọc đầy đồng trâu chẳng buồn ăn.

Ông tiền sử Hà Văn Thùy bộc lộ nỗi băn khoăn với ông Hán Nôm Trần Khuê liền được ông Hán Nôm Trần Khuê lí giải rằng khi nhà Lê suy đồi, Mạc Đăng Dung với vai trò là đại thần đã đem tài trí ra làm cột trụ chống giữ giang sơn nhà Lê. Ông thực thi pháp luật nghiêm minh, phát triển nông nghiệp, khuyến khích thương mại, mở khoa thi chọn hiền tài, hòa hiếu với nhà Minh… Nhờ vậy đất nước thanh bình, ổn định. Khi định mệnh lịch sử đưa Mạc Đăng Dung lên làm vua, ông càng có điều kiện hơn để thực thi chính sách của mình. Đây cũng là thời kỳ lực lượng phục Lê chưa đủ sức hoạt động. Vì vậy hai triều đầu, Thái Tổ, Thái Tông nhà Mạc đất nước thanh bình, thịnh trị được sử gia ghi nhận là thời tốt đẹp nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam và được lòng dân ghi nhận bằng câu ca dao Đời vua Thái Tổ, Thái Tông / Lúa mọc đầy đồng trâu chẳng buồn ăn .

Được lời như cởi tấm lòng, Hà Văn Thùy liền email khoe niềm vui tìm được giá trị đích thực của một báu vật trong gia tài văn hóa ông cha để lại. Kết thúc email, Hà Văn Thùy viết: Ngẫm ra mới biết lòng dân thật sâu sắc và công bằng. Chỉ có hiểu biết nông cạn và hẹp hòi thì không thể thấy được sự thăm thẳm và mênh mang của lòng dân. Xin cảm ơn sự sâu sắc của nhà Hán Nôm học Trần Khuê.

Một số hình ảnh:

Trần Khuê (phải) và Phạm Đình Trọng tại Hà Nội năm 1983

Từ trái qua: Trần Khuê, Lê Phú Khải vàPhạm Đình Trọng chụp tại Sài Gòn năm 2018










No comments: