Trong buổi họp báo tại
Rose Garden nhân chuyến viếng thăm Hoa Kỳ ngày 25 tháng 9, 2015, Chủ tịch Trung
Cộng Tập Cận Bình phát biểu “Hoạt động xây dựng liên hệ mà Trung Quốc đang tiến
hành ở quần đảo Nam Sa [Trường Sa] không nhắm mục tiêu hay tác động đến bất kỳ
quốc gia nào và không có ý định quân sự hó
Trong lúc Tập mặt dày nói
dối trước thế giới, các mục tiêu quân sự hóa Biển Đông gần hoàn tất.
Từ 2013, Trung Cộng (TC)
lợi dụng chính sách đối ngoại hòa hoãn của TT Barack Obama đã tiến hành xây dựng
bảy đảo nhân tạo tại các bãi đá họ chiếm được trên Biển Đông với ý định biến
các nơi này thành các căn cứ quân sự.
Các đảo nhân tạo được
trang bị với phi cơ chiến đấu, oanh tạc cơ, kho đạn dược, các phương tiện phục
vụ chiến tranh và được mệnh danh là những “hàng không mẫu hạm không thể chìm”
(unsinkable aircraft carriers).
Lo ngại phản ứng của Mỹ
và quốc tế, Tập chỉ thị tiến hành xây dựng một cách gấp rút. Để làm việc này
nhanh chóng, TC đã tàn phá các môi trường biển vốn cần được phát triển tự
nhiên. Nhà hải dương học John McManus thuộc đại học Miami tố cáo: “một cách căn
bản, TC tàn phá mọi thứ sống chung quanh các rạn san hô.”
Bảy đảo nhân tạo đó gồm Johnson Reef South (Đá Gạc Ma), Subi Reef (Đá Xu Bi), Gaven Reef (Đá Ga
Ven), Hughes Reef (Đá Tư Nghĩa), Fiery Cross Reef (Đá Chữ Thập), Cuarteron Reef
(Đá Châu Viên) và Mischief Reef (Đá Vành Khăn).
Việt Nam khẳng định chủ
quyền đối với tất cả bãi đá nêu trên thuộc quần đảo Trường Sa nhưng các quốc
gia khác gồm Philippines, Malaysia, Brunei, Taiwan và Trung Cộng cũng tuyên bố
chủ quyền.
Trong số bảy đảo nhân tạo,
ba đảo quan trọng nhất được xây trên các bãi đá Chữ Thập (Fiery Cross), Xu Bi (Subi) và Đá Vành
Khăn (Mischief). Ba đảo nhân tạo này được báo chí quốc tế gọi là “Big
Three” (Ba đảo nhân tạo lớn).
Riêng tại Đá Chữ Thập,
phi đạo dài mười ngàn bộ có khả năng đáp bất cứ loại chiến đấu cơ và oanh tạc
cơ nào của TC. Các căn cứ quân sự của TC trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng
Sa còn được trang bị bằng các võ khí tối tân. Các hỏa tiễn địa đối không (SAM)
HQ-9 có tầm trung bình 200 km, các giàn Radar và chiến đấu cơ J-11 được phát hiện
trên đảo Phú Lâm (Woody) thuộc Hoàng Sa từ năm 2016. Hôm nay, chắc chắn chúng
cũng đã được trang bị trên các đảo nhân tạo đã hoàn tất.
MỤC ĐÍCH XÂY DỰNG CÁC ĐẢO NHÂN
TẠO
Tập Cận Bình xây đảo nhân
tạo nhắm vào hai mục đích: (1) về chính trị, xây dựng một “tình trạng đang hiện
hữu” (status quo) và (2) về quân sự nhằm dựng hai phòng tuyến mặt đông nam
Trung Quốc.
Như người viết đã giải
thích trong các bài trước “Status quo” được định nghĩa như là tình trạng của
các điều kiện thực tế trước khi có sự thay đổi. Trong các cuộc thảo luận hay
tranh luận các bên thường có khuynh hướng chấp nhận một tình trạng và đôi khi
còn được xem đó như là một giới hạn mà nếu bị vượt qua sẽ tạo nên nhiều bất trắc.
Khi xây dựng các đảo nhân tạo, họ Tập nghĩ trong trường hợp tệ hại phải ngồi
vào bàn thương thuyết, y sẽ dùng các đảo nhân tạo như điểm giới hạn.
Về chính trị, việc xây đảo nhân tạo là một hình thức cắm cọc trên Biển Đông.
Tập Cận Bình nghĩ rằng,
trong trường hợp tệ hại các tranh chấp quốc tế phải dẫn tới các hội nghị, các cọc
trên Biển Đông sẽ được dùng để xác định chủ quyền của Trung Cộng. Bản chất tham
lam và nhỏ nhen của Trung Cộng không thay đổi dù chỉ vài mét như trong giai đoạn
xây dựng đường xe lửa phía bắc Việt Nam trước đây hay vài ngàn dặm như trên Biển
Đông ngày nay. Tập muốn đặt thế giới trước chuyện đã rồi.
Cách suy nghĩ của Tập rất
lạc hậu nhưng gian xảo. Trước Thế Chiến Thứ Nhất, ngoại trừ Geneva Convention I
ký kết năm 1863, các hiệp ước được ký kết giữa hai quốc gia hay hai nhóm quốc
gia nhằm tạo các liên minh quân sự. Nhưng các cuộc cách mạng kỹ thuật, công nghệ
và kinh tế đã làm điều kiện thế giới hoàn toàn thay đổi. Hầu hết các công ước
quốc tế về xử dụng nguyên tử, kinh tế, mậu dịch, môi trường quan trọng đều diễn
ra sau Thế Chiến Thứ Hai với nội dung và tác dụng hoàn toàn khác.
Thế giới ngày nay ngoài
việc ràng buộc bởi các công ước, hiệp ước quốc tế, quan hệ giữa các quốc gia
còn bị chi phối bởi hiến chương Liên Hiệp Quốc và nhiều luật pháp quốc tế không
chỉ về an ninh quốc phòng mà còn cả kinh tế, thương mại. Việc bị trừng phạt vì
bất cứ lý do gì cũng ảnh hưởng tận gốc đời sống của một quốc gia như trường hợp
Nam Phi và Lybia đầu thập niên 1990 hay Iran, Bắc Hàn hiện nay.
Phản ứng của TC sau vụ
Philippines kiện TC cho thấy mặc dù phủ nhận giá trị của phán quyết do Tòa Trọng
Tài Thường Trực (The Hague) công bố, Trung Cộng trong thực tế đã thừa nhận
Philippines thắng kiện.
Về quân sự, Tập Cận Bình khi dựng các căn cứ quân sự nhằm tạo hai phòng tuyến bảo
vệ sườn đông nam của Trung Quốc.
Một câu hỏi thường được đặt
ra phải chăng các cơ sở quân sự của TC trên Biển Đông thật sự đe dọa về an ninh
quốc phòng đối với Mỹ?
Câu trả lời chung của các
chuyên viên quân sự là không và đa số nhận xét những đảo đó sẽ bị vô hiệu hóa
nhanh chóng.
Vô hiệu hóa bằng cách nào?
Bằng hai cách, (1) đánh
chìm xuống Thái Bình Dương hay (2) bỏ qua với chiến lược "Ếch nhảy"
(Leapfrogging) như Mỹ đã áp dụng trong mặt trận Thái Bình Dương của Thế Chiến
Thứ Hai.
Rand Corporation, một
công ty nghiên cứu các chiến lược chính trị và quân sự có tầm vóc thế giới
trong tài liệu công phu dày 430 trang về tương quan quân sự Mỹ-TC (The
U.S.-China military scorecard: forces, geography, and the evolving balance of
power, 1996-2017) cho rằng “những căn cứ quân sự có trang bị một số SAM và phi
cơ chiến đấu không chắc chắn đóng vai trò gì đáng kể trong một đụng chạm quân sự
với cường độ cao chống lại Mỹ lâu hơn một giờ.”
Theo Rand, lịch sử chiến
tranh cho thấy SAM chỉ hữu hiệu khi được che giấu, nhưng trong điều kiện của một
đảo nhân tạo giữa Thái Bình Dương, SAM không có nơi nào để giấu.
Các căn cứ quân sự dưới đạng đảo nhân tạo là căn cứ cố định và cho dù phòng thủ dày đến mức nào cũng sẽ là mục tiêu dễ dàng của hải và không lực Mỹ.
Những điểm bất lợi đó quá
hiển nhiên không đợi phải là chuyên gia quân sự mới nhận ra và dĩ nhiên TC cũng
biết. Nhưng tại sao họ vẫn xây dựng?
TC tin rằng những phi cơ
chiến đấu và hỏa tiễn tầm 200 km đủ để phô trương và đe dọa các nước nhỏ đang
tranh chấp với TC và “Big Three” (Chữ Thập, Xu Bi và Vành Khăn) sẽ được hiện đại
hóa với những vũ khí có khả năng di động cao để không chỉ tự phòng thủ mà còn
phản công.
Ngoài ra, các đảo nhân tạo
cũng có thể sẽ bị bỏ qua nếu Mỹ áp dụng chiến lược “Ếch nhảy” (Leapfrogging)
như đã dùng trong mặt trận Thái Bình Dương trong Thế Chiến Thứ Hai.
Chiến lược “Ếch nhảy” là gì?
“Ếch nhảy” hay gọi đủ câu
là “Ếch nhảy tới Tokyo” là một chiến lược quân sự độc đáo của Mỹ được áp dụng
trong cuộc chiến Thái Bình Dương giữa Mỹ va Nhật.
Nhật Bản ngoài 5 đảo
chính Hokkaido, Honshu, Shikoku, Kyushu, và Okinawa, còn có 430 đảo dân cư ngụ
trong tổng cộng 6,852 đảo tạo thành quốc gia quần đảo Nhật. Đảo lớn nhất là
Honshu và được xem như đảo chính nơi có thủ đô Tokyo.
Ngày 30 tháng 3, 1942, Đô
Đốc Chester Nimitz được đề bạt vào chức vụ Tư lịnh Tối Cao Quân Đội Đồng Minh
Khu Vực Thái Bình Dương (Supreme Allied Commander Pacific Ocean Areas) với nhiệm
vụ tấn công về hướng bắc để chiếm các nhóm đảo Gilbert, Marshall, Marianas theo
hướng nhóm đảo Bonin. Một khu vực khác phía Tây Nam Thái Bình Dương đặt dưới
quyền Thống Tướng Douglas MacArthur tấn công Solomons, New Guinea, Bismarck
Archipelago tiến về hướng Philippines.
Một khó khăn của Mỹ là nếu
tấn công tất cả các đảo dọc đường tiến quân sẽ phải tốn rất nhiều quân và vũ
khí. Những trận đánh trước đó cho thấy quân đội Nhật chiến đấu đến người lính
cuối cùng. Dù thua quân đội Nhật cũng gây tổn thất lớn cho phía đồng minh.
Chiến lược “Ếch nhảy” được
ra đời.
"Ếch Nhảy" là
chiến lược dùng không quân và hải lực với nhiều nhất là tàu ngầm nhằm ngăn chận
mọi phương tiện tiếp tế, tăng cường cho đảo và không cho quân Nhật đóng trên đảo
rút lui. Nói tóm lại quân đội Nhật đóng trên các đảo bị vô hiệu hóa bằng cô lập.
Chiến lược "Ếch Nhảy"
cho phép quân đội Mỹ tiến nhanh vào nội địa Nhật thay vì phải tấn công từng đảo
một. Các tư lịnh tối cao của Mỹ chọn những đảo cần thiết để tấn công. Những đảo
bị tấn công phải đáp ứng những điều kiện cần thiết để từ đó làm bàn đạp tấn
công các đảo khác và mục tiêu cuối cùng là tấn công Tokyo.
Trong lúc đó các tư lịnh
Nhật không tiên đoán được đảo nào sẽ bị tấn công và đảo nào bi bỏ qua nên phải
tập trung phòng thủ tất cả các đảo trên đường tiến quân của Mỹ. Chẳng hạn, Nhật
tập trung một lực lượng lớn để phòng thủ Rabaul thì Mỹ lại bỏ qua và tấn công
các đảo phòng thủ nhẹ hơn bên cạnh. Điều này đòi hỏi Nhật phải bố trí một hàng
rào phòng thủ tốn kém hơn nhưng lại mỏng.
Áp dụng chiến lược "Ếch
Nhảy" này vào cuộc chiến Thái Bình Dương nếu xảy ra trong tương lai, các tự
lịnh Mỹ có thể chọn tấn công nhiều đảo, một vài đảo hay thậm chí không tấn công
đảo nào mà chỉ trung lập hóa chúng.
TẬP GIỐNG HITLER KHÔNG SỢ CHIẾN
TRANH BẰNG MIỆNG
Cuộc hành quân tái chiếm
vùng Rhineland là một bài học lịch sử cần học vì nước cờ Tập đang đi gần như lập
lại nước cờ của Hitler trước Thế Chiến Thứ Hai.
Sáng ngày 7 tháng 3,
1936, Hitler đưa một đạo quân nhỏ khoảng ba ngàn và vài chiếc phi cơ chiến đấu
tiến chiếm vùng Rhineland lúc đó đang được đặt dưới sự bảo hộ của phe đồng
minh, trực tiếp là Anh và Pháp. Với hành động này Hitler vi phạm cả hai hiệp ước
Versailles và Locarno. Quân Đức bị máy bay thám thính của Pháp phát hiện và vài
tiểu đoàn Đức đối diện với một lực lượng Pháp đông gấp nhiều lần đóng bên kia
biên giới Đức Pháp. Thay vì tấn công quân Đức bằng bộ binh hay không lực, Pháp
đã chọn không làm gì ngoài những lời tố cáo trễ tràng sau đó.
Tập làm giống hệt như
Hitler bằng cách chiếm một đảo, vài đảo để đo lường phản ứng trước khi tiến tới
quân sự hóa và độc chiếm Biển Đông.
Hitler dù sao cũng có lý
do vì Rhineland vốn là đất của Đức. Biển Đông chưa bao giờ là của TC. Việc
không dám ra trước tòa án quốc tế để chứng minh chủ quyền cho thấy Tập Cận Bình
đã gián tiếp thừa nhận các đảo và bãi đá trên Biển Đông không phải là của tổ
tiên nhà Hán nào để lại. Nhưng giống Hitler khi tái vũ trang vùng Rhineland, Tập
bắt mạch đúng xu hướng chính trị chủ hòa của Mỹ và tận dụng thế yếu của các nước
đối thủ, cạnh tranh nhưng thiếu đoàn kết trong vùng.
PHẢN ỨNG CỦA MỸ
Phát biểu của Ngoại trưởng
Mike Pompeo “các đòi hỏi của
TC đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi trên hầu hết Biển Đông là hoàn toàn
bất hợp pháp” và sau đó của Phụ tá Ngoại Trưởng David Stilwell “Mỹ sẽ không còn nói rằng chúng
tôi trung lập về các vấn đề hàng hải này” trong tháng 7, 2020 cho thấy Mỹ
không còn đóng vai trò trung lập trong tranh chấp Biển Đông.
Điểm nổi bật là cả hai đều
nhấn mạnh đến vai trò của luật pháp quốc tế trong giải quyết các xung đột.
Ra tòa án quốc tế đối với
Trung Cộng là điều tối kỵ. Những kẻ ăn cướp không bao giờ dám công khai đối chất.
Cho đến nay mọi biển đảo từ
Hoàng Sa đến Trường Sa Trung Cộng đều cưỡng chiếm bằng bạo lực và hành động này
đã vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, một bản cam kết quan trọng nhất phải được
các quốc gia hội viên tuân thủ.
Các phán quyết của Tòa Án
Quốc Tế về Luật Biển do Tòa Trọng Tài Thường Trực công bố sau vụ kiện của
Philippines cho thấy TC có quyền phủ quyết các quyết nghị của Hội Đồng Bảo An
LHQ nhưng không có quyền phủ quyết các phán quyết của Tòa Án Quốc Tế về Luật Biển
(The International Tribunal on the Law of the Sea, ITLOS).
Nhưng giống như Hitler, Tập
sẽ không chồn chân bằng lời hù dọa hay thỉnh thoảng bằng sự hiện diện vài tàu
chiến trong vùng.
Bằng chứng là ngay sau
tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo, TC đã đưa thêm nhiều chiến đấu cơ và
oanh tạc cơ tới đảo Phú Lâm (Woody) như một cách thách thức Mỹ.
Tập Cận Bình tin rằng trong điều kiện đại dịch, sự xáo trộn đang diễn ra trong xã hội Mỹ và mùa bầu cử sắp đến, Mỹ rất khó có những biện pháp cứng rắn cụ thể nào đối với TC. Điều đó vẫn còn phải chờ xem, trận đấu mới bắt đầu.
Tập Cận Bình tin rằng trong điều kiện đại dịch, sự xáo trộn đang diễn ra trong xã hội Mỹ và mùa bầu cử sắp đến, Mỹ rất khó có những biện pháp cứng rắn cụ thể nào đối với TC. Điều đó vẫn còn phải chờ xem, trận đấu mới bắt đầu.
Hẳn nhiên Tập sẽ không hủy
bỏ các công trình y đã xây dựng và sẽ không từ bỏ tham vọng bành trướng vì đó
là thuộc tính tất yếu của mọi đế quốc độc tài dù độc tài Hitler hay độc tài Tập.
Tuy nhiên, giống như mọi
đế quốc độc tài khác, TC sẽ tan vỡ do các mâu thuẫn từ bên trong cơ chế.
Các mâu thuẫn nội tại có
tính triệt tiêu nhau đó sẽ sâu sắc hơn nếu có tác động mạnh từ bên ngoài.
Sự hình thành của giai cấp
tư bản đỏ giúp kéo dài mạng sống của chế độ nhưng không có nghĩa giúp hóa giải
được các mâu thuẫn đối kháng bên trong. Sự sụp đổ của Liên Sô cho thấy tác động
ngoại lực như chạy đua vũ trang, tạo khủng hoảng năng lượng, bao vây kinh tế,
làm sa lầy trong chiến tranh Afghanistan như Mỹ đã làm đối với Liên Sô trong thập
niên 1980 v.v.. rất quan trọng. Những tác động đó gia tăng cường độ của các
xung đột thuộc phạm vi bản chất của chế độ CS Liên Sô.
Phong trào giành độc lập
của các dân tộc thuộc đế quốc Ottoman trước và sau Thế Chiến Thứ Nhất dẫn tới sự
sụp đổ nhanh chóng của đế quốc này và ra đời của nhiều quốc gia mới. Tương tự
xung đột với Mỹ, Nhật, Ấn Độ và liên minh các quốc gia chống TC trong vùng Nam
và Đông Thái Bình Dương sẽ làm chế độ CS tại Trung Quốc tan vỡ nhanh hơn. TC
tan vỡ càng sớm bao nhiêu các nước nhỏ trong ùng càng có lợi bấy nhiêu.
CHỌN LỰA CỤ THỂ NÀO CỦA MỸ?
Hai nhà bình luận Zack
Cooper và Bonnie S. Glaser trong phân tích “Chọn Lựa Nào Đặt Trên Bàn Trong
Tranh Chấp Biển Đông?” (What Options are On the Table in the South China Sea?)
đăng trên trang World Popitics Review hôm 22 tháng 7, 2020, có đưa ra các biện
pháp Mỹ có thể làm.
Những biện pháp đó gồm
(1) trừng phạt kinh tế, (2) tuần tra để thách thức hoặc trục xuất các tàu đánh
cá hoặc tàu thăm dò dầu khí của TC hoạt động không được phép của quốc gia sở hữu
các khu vực độc quyền kinh tế, (3) hỗ trợ trực tiếp hơn cho các lực lượng đồng
minh và đối tác, (4) giúp các đồng minh và đối tác trong khu vực xây dựng khả
năng riêng để chống lại sự ép buộc của TC, (5) đưa ra tuyên bố chung với các đồng
minh và các đối tác để hỗ trợ các quyền hợp pháp của họ.
Ngoại trừ những lời tuyên
bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo chỉ phục vụ cho các mục đích chính trị ngắn hạn,
các biện pháp do Zack Cooper và Bonnie S. Glaser đưa ra có thể là những biện
pháp tích cực nhất và cần thiết phải thi hành. Nếu không, những tuyên bố dù mạnh
miệng bao nhiêu cũng chỉ là những lời hù dọa. Tập, giống như Hitler trước đây,
không sợ ai hù.
Thế giới không còn là tập
hợp của các quốc gia riêng lẻ như trong giai đoạn tiền cách mạng kỹ nghệ đầu thế
kỷ 18 mà là một cộng đồng của những quốc gia có tác động và ảnh hưởng nhau
trong mọi lãnh vực. Trong mọi xung đột ngày nay, không một nước nào dù nhỏ hay
lớn là được miễn trừ hậu quả hay hoàn toàn có lợi. Mọi tranh chấp cũng không
đơn thuần là đối đầu nhau về quân sự mà mọi lãnh vực đều có thể có chiến tranh.
Xây dựng nền dân chủ, phục hưng nội lực dân tộc và vận dụng mọi biến cố thế giới
có lợi cho đất nước là những trách nhiệm hàng đầu của lãnh đạo quốc gia.
Trần Trung Đạo
No comments:
Post a Comment