7/28/2020 0
Comments
Tôi tình cờ “nhặt”
trên FB một
tác phẩm khá độc đáo của Marc
Riboud. Ông “chớp” được cảnh một anh bộ đội (với con búp bê nằm
dưới nắp ba lô, và cái sắc cầm tay) đang trên đường trở về quê cũ.
Cùng với bức ảnh là lời bình, cũng độc đáo không kém, của face
booker Nguyễn
Hoàng: “Thằng này coi vậy mà hiền, chỉ lấy con búp bê cho con và cái bóp
đầm cho vợ mà thôi.”
Thằng chả hiền thiệt
chớ. Cái ba lô xẹp lép hà. Ngó thấy mà thương. Là kẻ cầm súng,
thuộc phe thắng trận, đương sự có thể thu góp được chiến lợi phẩm
nhiều hơn thế.
Hình :
Bên thua cuộc, rõ
ràng, không mất mát chi nhiều mà Bắc/Nam đã được “nối vòng
tay lớn” - theo như cách nói của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Rồi
ra, tác giả còn dự tưởng, sẽ có những đoàn tầu thống nhất “toả
khói trắng hai bên đường,” những đám “trẻ thơ đi hát
đồng dao” khắp ngõ, và “mọi người ra phố mời rao nụ cười.”
Họ Trịnh, có lẽ,
thực lòng tin tưởng như thế. Niềm tin của ông cũng được không ít
người đồng thời chia sẻ. Sự thực, tiếc thay, khác thế. Sau ngày “Nam/Bắc
hoà lời ca” thì nụ cười gần như biến mất trên môi của mọi
người dân Việt.
Dù thuộc bên thắng
cuộc, những bộ đội phục viên cũng không hề được hân hoan cười đón khi
họ trở về:
“Tôi đã được chứng kiến cảnh hẫng hụt của nhiều người
khi họ... ngơ ngác tìm kế sinh nhai, đã không ít người đòi đảng, chính quyền cơ
sở phải chia ruộng đất cho họ, và tất nhiên đảng, chính quyền không thể moi đâu
ra ruộng đất để cho họ cày, cực chẳng đã, nhiều người đã trực tiếp đòi ruộng
cha ông mà ngày trước họ đã góp vào hợp tác xã, không ít người đã tự ý đi cày
ruộng cha ông của mình, thế là... họ được quy là công thần, gây rối, chống lại
đường lối của đảng, nhà nước, kết cục có người bị đuổi ra khỏi đảng, có người bị
bị bắt lên xã, lên huyện tạm giam để xử lý vì đã ngang nhiên lấn chiếm đất đai
của nhà nước đã giao cho người khác.” (Vi Đức Hồi - Đối
Mặt, Chương II).
Đoạn hồi ký thượng
dẫn giúp cho độc giả hiểu tại sao vỉa hè Hà Nội lại đông đảo những
người làm nghề cửu vạn. Họ sống ra sao?
“Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của
nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó
đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài
đường.” (Tô Hoài. Chiều
Chiều. Phương Nam, Hà Nội: 2014).
Giữa Thủ Đô Của Lương
Tâm Nhân Loại mà trải chiếu “đéo nhau huỳnh huỵch” thì (ngó) cũng hơi
khó coi. Tuy thế - và được thế - vẫn hơn hẳn nhiều bạn đồng đội
(không may) khác, đang “nạng
gỗ khua rỗ mặt đường làng.”
Ảnh Hà Nội Mới
Hạnh phúc hay đau khổ
(nghĩ cho cùng) chỉ là sự so chiếu, và mọi so chiếu đều tương đối
cả. Nói chi đến những người lính vô danh, ngay cả một nhân vật tiếng
tăm cỡ như thi sĩ Tế Hanh (“từng là ủy viên ban chấp hành hoặc thường vụ Hội
Nhà Văn VN, từng mười năm liền phụ trách đối ngoại của hội, từng có chân trong
ban phụ trách nhà xuất bản Văn học”) đến cuối đời cũng đành chép miệng: “Trải
qua hai cuộc chiến tranh mình còn được sống, được làm thơ, còn may mắn hơn khối
người khác, thế là được rồi.” (Vương Trí Nhàn. Cây Bút Đời Người.
Phương Nam, Hà Nội: 2002).
Vâng, đúng thế. Còn
sống là “may mắn hơn khối người” rồi!
Theo thống kê (chắc
không khả xác) của Tổng
Cục Chính Trị thì đến năm 2012, toàn quốc chỉ có 1.146.250 liệt sĩ và
khoảng 600.000 thương binh, trong đó có 849.018 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến
chống Mỹ. Wikipedia tiếng
Việt cho biết thêm:
“Từ tháng 12 năm 1994 đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý cho
44.253 Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng.”
Có bà bị lọt sổ vì
không đủ “kiên trinh” nên đã (lỡ) đi thêm bước nữa - theo như tường
trình của Tuổi
Trẻ Online:
“Chúng tôi đến khi bà Trần Thị M. đang ăn tối ngay
trên giường. Bà đã ở trên giường như vậy gần ba năm rồi, kể từ khi đôi chân
không còn tự đứng lên được nữa. Ấy thế nhưng khi hỏi đến chuyện xưa, đôi mắt bà
sáng lên.
Bà say sưa kể về những ngày hoạt động cách mạng, những
ngày tù ngục đòn roi tra tấn, thương tích tới 75% (thương binh hạng 2/4)... Vượt
qua được hết, chỉ không chịu nổi mỗi lúc nghe tin chồng, tin con thôi” - bà chợt
trầm giọng. Ba lần ‘không chịu nổi’ ấy là vào năm 1962, ông Võ Mười, chồng bà,
hi sinh khi bà mới 30 tuổi; năm 1964, con trai út Võ Danh của bà bị bắn chết
khi vừa 6 tuổi, đang được giao việc cảnh giới cho các chú cán bộ họp; năm 1971,
con trai lớn Võ Thái làm giao liên cho ban binh vận Khu ủy Khu V hi sinh ở tuổi
16.
Còn lại một mình giữa đạn bom, hai lần bị bắt, giam
cầm tra khảo ở nhà lao Quảng Ngãi, năm 1974 bà gá nghĩa với một người đồng đội,
ông Thái Văn Thới. Chiến tranh vẫn ác liệt, đâu biết mai này sống chết thế nào.
Thương nhau, thông cảm hoàn cảnh của nhau thì về với nhau thôi” - bà kể. Ngày
21-2-2014, UBND P.12, Q.Bình Thạnh đã tổ chức cuộc họp để xét duyệt và đề nghị
Nhà nước tặng danh hiệu Bà mẹ VN anh hùng cho bà. Phường đã có tờ trình về trường
hợp của bà gửi Phòng Lao động - thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH) Q.Bình Thạnh,
Sở LĐ-TB&XH TP.HCM. Tuy nhiên, sau đó gia đình bà nhận được thông báo bà
chưa được lập hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Bà mẹ VN anh hùng do đã... tái
giá.”
Phải chi cái hồi giao
“công tác cách mạng” cho hai đứa nhỏ (6 tuổi và 16 tuổi) mà Nhà Nước
cũng xét (nét) kỹ càng như vậy thì đỡ cho mẹ Trần Thị M. biết mấy.
Dù sao, vẫn còn có điều an ủi là nhờ đang sống ở thành phố mang tên
Bác nên tờ trình về trường hợp của bà cũng đã được gửi tới Sở LĐ
-TB&XH TP.HCM và đã được cứu xét (rồi) từ chối!
Ảnh PNVN
Có mẹ không nhận được
danh hiệu anh hùng chỉ vì lỡ “chui rúc” ở những nơi hoang vu quá. Bên
Kia Đèo Bá Thở là một nơi như thế:
“Trên bản đồ quân sự cũng như bản đồ của nha Ðịa Dư
không bao giờ có địa danh ‘Ðèo Bá Thở’. Bởi vì đặt cái tên cho ngọn đèo này
chính là tôi và một vài người bạn… Ngọn đồi nằm không xa trại giam chúng tôi
trong tỉnh Yên Bái. Ngày ngày đội chúng tôi có mười anh em phải băng qua bên
kia cái đèo khốn nạn này, tới một khu rừng toàn thị là tre, nưá, giang...”
“Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên
kia có một cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống
cái mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có cửa.
Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi vì trông nó
còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.”
“Một hôm cả bọn chúng tôi thấy trời còn sớm, nên nghỉ
lại bên kia dốc một lát trước khi ‘bá thở’. Chúng tôi nghe lục đục trong cái
chòi bỏ hoang, và phát giác đuợc một cụ già thật già. Nét mặt bà cụ nhăn nheo hệt
như những vết nẻ của ruộng bị hạn hán nhiều ngày. Bà già có một cặp mắt nâu đục,
lờ đờ và đầy rỉ mắt. Bà già mặc một cái áo bông vá chằng vá đụp. Phải gọi đây
là cái áo vá trên những miếng vá. Nó nặng dễ chừng đến năm ký chứ không chơi.
Chúng tôi gạ chuyện, song tất nhiên bà già biết chúng tôi là tù ‘Ngụy’ nên
không hé răng một nửa lời”.
“Hôm sau trong lúc đốn tre chúng tôi hội ý. Chúng
tôi lấy dư ra mỗi ngày vài cây về dấu ở gần căn lều của bà cụ. Ðược vài ngày đủ
tre để dựng lại căn lều, chúng tôi để hai người lại sửa còn tám người vào rừng
đốn tre cho đủ số lượng của mười người. Chúng tôi cũng cắt tranh về để dậm lại
những chỗ quá mục nát. Căn nhà sửa xong, có cửa để chui ra chui vào. Bà già khi
đó tự động nói chuyện với tụi tôi:
- Lão có ba đứa con, một đứa đã có giấy tử sĩ, hai
đưa kia thì hoà bình lâu rồi, nhưng lão không hề nhận được một chữ của chúng từ
ngày chúng đi. Lão mới có giấy mẹ liệt sĩ, mỗi tháng có tiền nhưng chả vào
đâu.” (Hoàng Khởi Phong. “Bên Kia Ðèo Bá Thở.” Cây Tùng Trước Bão. Thời Văn, Hoa
Kỳ: 2001).
Bà lão hẳn đã qua
đời từ lâu. Những người lính thắng trận trên đường về quê (với con
búp bê cầm tay) hơn 40 năm trước e cũng không còn mấy ai sống sót. Đám
mẹ "ngụy" và lũ con thua cuộc cũng thế, cũng đều đã lần
lượt đi vào lòng đất.
Kẻ Bắc/người Nam, bên
thua/bên thắng nên họ đã phải trải qua những hoàn cảnh và kinh nghiệm
sống khác nhau. Duy có điều này thì chắc chắc là hoàn toàn không
khác: khi họ chết không ai nhắm mắt!
28.07.2020
No comments:
Post a Comment