18/03/2019
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát…….
(Nguyên Sa)
*
Sài Gòn, cái tên của
một thành phố đã từng là ước mơ của Lý Quang Diệu, là sự khởi đầu
cho lẽ sống của hơn một triệu người miền Bắc trong cuộc di cư vào Nam
năm 1954 và cũng là nơi mầm móng tự do kết thúc. Sài Gòn, tụ điểm
nuôi dưỡng những nét văn hóa miền nam riêng biệt, những ước mơ lãng
mạn, ảo vọng, cuồng nộ một thời của tuổi trẻ miền nam, là nỗi ám
ảnh trong trí nhớ của những đoàn quân viễn chinh ngoại quốc, đã đi
vào lịch sử Việt Nam và thế giới như một biến cố đẫm máu và nước
mắt. Sài Gòn, cái tên của một thành phố cần phải xóa bỏ, theo
quyết định của bên thắng cuộc, và thay bằng cái tên thành phố Hồ
Chí Minh.
Từ ngày 30.04.1975,
cái tên Sài Gòn đã vượt biển theo dòng người tỵ nạn, cùng có mặt
khắp nơi trên thế giới. 44 năm trôi qua, Sài Gòn vẫn là biểu tượng
của hy vọng, của sức sống năng động mãnh liệt, của một miền đất
hứa. Cái tên Thành phố Hồ Chi Minh chỉ thấy trên các văn bản, giấy
tờ hành chánh vô hồn.
Nền văn hóa cá biệt của miền Nam được cấu thành do hoàn cảnh địa lý, sự giao thoa văn hóa các dân tộc và chính sách giáo dục.
Miền Bắc, kẻ chiến
thắng, sau bao cố gắng tìm cách hủy hoại nền văn hóa này, cuối cùng
vẫn phải học hỏi, thu nhập. Giá trị của nó được xác định qua thử
thách của thời gian dù đã bị sự góp sức tàn phá của con người.
Một nền văn hóa phong phú và đa dạng với một kho tàng sách báo, văn
học, nghệ thuật…. đã tìm lại được chỗ đứng của mình.
Miền Nam, với sự ưu
đãi của thiên nhiên và môi trường sống, đã sinh ra những con người chân
thật, thẳng thắn, phóng khoáng, năng động và thực tiễn. Triết lý
giáo dục với 3 nguyên tắc căn bản ‘nhân bản, dân tộc, khai phóng’ * đã sinh ra những lớp
người tự trọng, lương thiện, yêu gia đình, quê hương và sự tự do. Dù
có những hạn chế, khuyết điểm trong việc quản trị, đào tạo và xây
dựng do hoàn cảnh chiến tranh, nền giáo dục này vẫn chứng tỏ được
nó là một thực thể độc lập trong cơ cấu tổ chức chính trị miền
Nam.
Mô hình tự trị đại
học là một ví dụ. Công việc giáo dục được hướng dẫn, điều hành
bởi những chuyên gia, nhà giáo có tâm tận tụy trong ngành. Thành hình
với một triết lý giáo dục, nền giáo dục này đã góp phần vào việc
tạo dựng một nền văn hóa nuôi sống tâm hồn và bồi đắp tri thức độc
lập cho nhiều thế hệ thanh thiếu niên miền Nam.Tâm hồn yêu người, yêu
quê hương, dân tộc.Tri thức độc lập khao khát tìm tòi học hỏi nhưng
không chấp nhận sự áp đặt tư tưởng.Tình tự dân tộc, tính nhân bản
thể hiện rõ nét qua văn chương và âm nhạc.
Chúng vượt lên trên
những hận thù mang danh chủ nghĩa và các thủ đoạn chính trị.
Nắng Sài Gòn anh đi
mà chợt mát…..Một mâu thuẫn kỳ lạ và ngộ nghĩnh. Cái nắng gay gắt,
chói chan của Sài Gòn trở nên mát ‘Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông’.
Một kết hợp đi ngược lý luận bình thường nhưng lại đập mạnh vào tâm
hồn người đọc, dù chỉ bằng sự mềm mại của tấm áo lụa, vì xuất
phát từ nỗi lòng u uẩn và từ những mất mát tiếc nuối vô bờ.
Áo lụa Hà Đông không
dừng lại như một bài thơ tình. Nó vượt qua dòng sông Bến Hải, nối
dài những ước mơ đã bị chia cắt. Nó dẫn người đọc trở về những
hình ảnh thơ mộng, thanh lịch của một Hà Nội ngày xưa, xa lắm. Nó
đã đập vào trí tưởng tượng, làm rung động biết bao trái tim người
miền Nam, dù họ chưa một lần đặt chân đến thành phố đó. Và rồi mãi
mãi vẫn chỉ là một cuộc tình đã mất của nhà thơ và sự hoài tưởng
trong giấc mộng dài của người đọc.
Màu con mắt bên màu xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn trở lại bên này
Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay
(Trích: Người đi đâu..Bùi Giáng.)
Ở bên kia nhìn trở lại bên này
Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay
(Trích: Người đi đâu..Bùi Giáng.)
Áo Lụa Hà Đông mở
đầu như một nghịch lý. Người Đi Đâu kết thúc như nỗi đớn đau vì
những bàn tay thô bạo, những tàn nhẫn, vô minh. Mở đầu bằng thực
tại. Kết thúc bằng tâm thức đánh động lương tri con người.
Tình người là đặc
điểm trong các sáng tác âm nhạc miền Nam. Nó luôn nở hoa trên đống tro
tàn. Tình thương bên cạnh hận thù. Hy vọng bên cạnh tuyệt vọng. Xây
dựng bên cạnh đổ nát. Hồi sinh bên cạnh cái chết. Những sáng tác
của các nhạc sĩ như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Trần Thiện Thanh, Duy
Khánh, Nguyễn Văn Đông, Nhật Ngân, Lam Phương v..v….. đã được phổ biến
khắp nước, trong hang cùng ngõ hẻm, ngoài tiền tuyến cũng như hậu
phương. Chúng đi vào tâm hồn người Việt thuộc mọi tầng lớp xã hội
một cách tự nhiên, không cần rao giảng, cổ vũ tuyên truyền. Chúng
phản ảnh nỗi sợ hãi chiến tranh, tình tự dân tộc, tình nghĩa đồng
bào, chán ghét sự lừa bịp chủ nghĩa đã đẩy dân tộc vào một cuộc chiến
tàn khốc phi nghĩa.
Tính nhân bản là yếu
tố chính để giải thích lý do tại sao loại nhạc vàng được yêu thích
ở Việt Nam hiện nay. Đó là quyền lực mềm làm cái ác, sự lừa dối
luôn phải lo sợ, tìm cách đối phó. Các cuộc tranh luận về thể điệu
Bolero trong thời gian vừa qua rất vô ích. Sự thành công của một ca
khúc là đi được vào lòng người. Bản hòa tấu Bolero của Maurice Ravel
cứ mỗi 15 phút lại phát lên ở đâu đó trên quả địa cầu là một thí
dụ điển hình, trong khi chính ông lại phủ nhận gíá trị âm nhạc của
nó: I have written a masterpiece. Unfortunately, there is no music in it.
Trước hết phải hiểu
được những gì người khác đang hiểu nếu muốn giúp đỡ họ, theo Søren
Kierkegaard, triết gia người Đan Mạch. Điều này có nghĩa là phải hiểu
tại sao có những người tôn trọng, đề cao giá trị văn hóa hay tôn giáo
của họ, nếu ta muốn thay đổi quan điểm của họ. Nếu không thì chỉ
nói chuyện với những lỗ tai điếc. Tuy vậy cũng nên nhớ rằng chính
mình cũng có thể sẽ bị thay đổi qua cuộc thảo luận. Bàn tròn cúa
lý trí cũng giống như cảm tính của con người vậy. Bài học đầu tiên
của lịch sử là cần sự khiêm tốn. Câu nói của Will Durant, sử gia
người Mỹ, là lời khuyên cho tất cả những ai đang tham gia vòng quay
lịch sử.
Hoàng Thủy Ngữ (Tác giả gửi đăng)
——————————————-
* Nguồn: Nền giáo
dục ở miền Nam 1954 – 1975. Nguyễn Thanh Liêm.
No comments:
Post a Comment