Tác Giả: Tưởng Năng Tiến
23/03/2019
Quỷ Lộng Chùa Hoang
Thành
ngữ Việt
Bố mẹ tôi đều gốc
gác nông dân, và đều là những phật tử thuần thành. Cũng như bao nhiêu
người dân Việt chân chất khác, ngoài việc cặm cụi mưu sinh, đời sống
(văn hoá, tinh thần, tâm linh) của ông bà – dường như – chỉ xoay quanh
việc kinh kệ, chùa chiền, lễ bái, cúng dường …
Thưở ấu thơ (khi còn
“lon xon như con với mẹ”) vào những lễ tết, tôi vẫn lon ton theo chân
thân mẫu đến chùa. Vì đây là đất Phật nên bà yên tâm để tôi tha thẩn khắp
nơi, suốt buổi, trong khi bận rộn làm công quả.
Cho đến lúc có thể đi
đây, đi đó một mình thì tôi (thôi) không bao giờ lai vãng đến chùa chiền
gì nữa. Không gian tâm linh của nơi thờ phượng tĩnh lặng và trang nghiêm
quá, xem ra, không hợp lắm với cái “tạng” hiếu động của tôi!
Càng lớn tôi càng xa
bố mẹ, xa chùa, và xa Phật Pháp Tăng. Mãi cho đến khi đời ngả về
chiều – tóc đã điểm sương, song thân đà khuất núi – tôi mới lờ mờ
cảm thấy rằng (hình như) mình đang xích lại gần, và cũng hơi để ý,
đến chuyện tôn giáo hơn … chút xíu!
Hóa ra, chùa chiền ở
Việt Nam không phải nơi đâu cũng đều “tĩnh lặng và trang nghiêm” như
trong ký ức tuổi thơ an lành và êm ả của tôi. Không ít chỗ không gian
tâm linh truyền thống của cả dân tộc đã bị quấy động … cho tới bến
luôn:
“Tại nhà thờ thánh, tượng
Khổng Tử lăn long lóc như người ăn mày tha hương chết đường chết chợ, bị trẻ
con ném cứt vào mặt. Tại ngôi chùa Trang Hà, hàng chục pho tượng đổ ngổn
ngang, bị lũ mục đồng ném bùn lấm láp nước sơn. Cái giếng hình bán nguyệt
trước cổng chùa đẹp thế mà cũng bị phá phách cày xới để trồng lúa. Mấy
tấm đá ghép cầu bị bê làm hố tiêu. Mấy chiếc bia lớn nhà thờ chánh tổng,
cái thì bị đem bắc cầu, cái thì bị bọn mục đồng khiêng đi làm trò chơi rồi ỉa
đái vung vãi trên mặt bia…
Ở làng tôi, đền chùa
miếu mạo, nhà thờ họ, mộ cổ, rừng cổ, cây cổ thụ đã bị phá trụi, không còn
gì để phục hồi nữa. (Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. NXB Tạp Chí Văn Học:
California, 2006).
Đó là chuyện xẩy ra
ở miền Trung, vào giữa thế kỷ XX, trong Giai Đoạn Phóng Tay Phát Động
Quần Chúng của những người CSVN. Sau khi đất nước thống nhất thì
pháp nạn lan đến miền Nam:.
·
Năm 1977 Hoà Thượng
Quảng Độ bị bắt giam, bắt đầu cho một cuộc sống tù đầy và lưu đầy
cho mãi đến bây giờ.
·
Năm 1988 Thượng Tọa
Tuệ Sĩ và Trí Siêu bị tuyên án tử hình, sau được giảm án xuống 20
năm cấm cố. Hai ông, cuối cùng, được phóng thích ngày 31 tháng 8 năm 1998,
sau 14 năm giam cầm.
Những bậc chân tù đều
bị cầm tù hay phát vãng thì chùa chiền bỏ lại cho ai?
Nhật ký của nhà phê
bình văn học & xã hội Vương
Trí Nhàn, ghi ngày 4 tháng 5 năm 79, có đoạn:
“Ngày Phật đản. Những
người tu hành vẫn có nét mặt hệt như mặt người ngoài đời mà tôi
vẫn gặp. Sao ở giữa cảnh đèn nhang nghi ngút của chùa Quán Sứ, giữa bao nhiêu
cụ bà thành tâm cúng vái, lại thấy một vị sư tuổi còn thanh niên, có nét mặt
trông như một trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng nào đó, mà tôi từng thấy ở
các mặt trận.”
Cùng với những vị “sư
ông” trông cứ như một sĩ quan tác chiến, chùa chiền VN còn có qúi vị
“sư nữ mắt long sòng sọc … miệng rít lên” (cứ như loài rắn tiếng
rắn) theo cách mô tả của nhà văn Dương Thu Hương:
“Trưa hôm đó, tôi qua cổng
chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt chân lên bậc tam cấp tôi chứng kiến một cảnh
tượng không tương hợp chút nào với chốn từ bi: Trên tấm phản gỗ mốc, sư cụ bà ốm
nằm còng queo, bát cháo ăn dở ở một góc phản khô đét lại. Nhà “sư nữ” ngoại tam
tuần mắt long sòng sọc, tay nắm cổ người bệnh lắc, miệng rít lên:
– Mày chết đi, mày chết
ngay đi cho người ta nhờ!…
Sư cụ đã quá yếu không động
cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng như quả bưởi trong tay người đàn bà trẻ
hung hãn:
– Mày chết đi…
Cụ không mở mắt nổi và giọng
nói đã đứt quãng nhưng hoàn toàn minh mẫn. Ðó là người đã xuống tóc từ thời
chính quyền 1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu tạo ngôi chùa này qua mọi
thăng trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may quyền hành để lưu giữ các
chân tu ở lại, thay cụ chủ trì. ‘Nhân sự’ do ‘bên trên’” đưa xuống.”
Vậy cái gì là ‘bên trên’
? Quyền lực nào áp chế những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp chùa
chiền xứ sở?… Chẳng có gì bí mật cả, ‘bên trên’ là A 25 Cục bảo vệ văn hóa thuộc
Tổng cục 1 Bộ Nội Vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để ‘yểm’ Hội Phật
Giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.”
Ảnh: FB
Chắc không mấy ai có
thể biết chính xác con số “heo lợn bẩn thỉu” mà A25 đã thả ra “để yểm”
chùa chiền nhưng mọi người đều phát hoảng khi cứt đái của lũ súc
vật này không chỉ làm ô uế cửa thiền mà còn tràn lan ra đến tận bên
ngoài. Bản tin của trang Tiếng Dân,
đọc được vào hôm 22 tháng 3 năm 2019, có tiểu mục “Buôn thần bán
thánh” ở chùa Ba Vàng: – Gọi
vong, thu hàng trăm tỷ: Trụ trì thừa nhận sự việc xảy ra ở chùa Ba Vàng (GT). – Chùa
Ba Vàng cho rằng có thể chữa bách bệnh bằng việc đuổi tà ma, tiễn vong (TN).
– Gọi
vong, thu hàng trăm tỷ: Chùa Ba Vàng quy tụ nghìn phật tử nhằm minh oan (GT).
– Chùa
Ba Vàng thu tiền gọi vong: Vừa công đức, vừa “do vong yêu cầu”? (LĐ).
– Người
phụ nữ tên “Phạm Thị Yến” tuyên truyền luận điệu “làm nhục” nữ sinh giao gà Điện
Biên ở chùa Ba Vàng là ai? (TGT). – Truyền
bá chuyện vong báo oán, chùa Ba Vàng mỗi năm thu trăm tỉ (Zing).
FB Nguyễn
Ngọc Chu đặt câu hỏi: Có bao nhiêu chùa Ba Vàng?
Rồi, ông trả lời:
“Trên Đất Nước ta có hàng trăm chùa ‘Ba Vàng’. Có nhiều chùa ‘Ba Vàng mới’ khủng
hơn chùa Ba Vàng Uông Bí. Đó là các chùa ở Bãi Đính, ở Tam Chúc…”
Tôi thì trộm nghĩ
khác: đó chả phải là chùa chiền gì cả mà chỉ là những bãi phân
giữa thời mạt pháp. Ngày nào mà chế độ hiện hành vẫn còn hoành
hành thì sẽ còn nhiều bãi cứt tương tự xuất hiện ở mọi nơi. Và
phân gio của Bộ Nội Vụ VN, thực ra, cũng đã vương vãi cùng khắp –
miếu đền, thánh thất, giáo đường – chớ đâu có riêng chi ở chốn thiền
môn.
No comments:
Post a Comment