Vụ
lừa đảo đặc biệt ở Việt Nam phơi bày lỗ hổng cố hữu của ngân hàng
Huỳnh Thị Thanh Trúc dịch
11.5.2024
Cuộc khủng hoảng tài chính năm
2008 cho thấy thế giới phụ thuộc nhiều đến cỡ nào vào việc các ngân
hàng được vận hành tốt. Kể từ đó, các cơ quan quản lý đã được trao những quyền
mới để siết chặt kiểm soát một vài tổ chức lớn nhất nhằm
ngăn chặn rủi ro, lòng tham và tham
nhũng.
Trương Mỹ Lan tại phiên tòa ở Việt Nam, tháng 4 năm
2024. EPA-EFE/STRINGER
Nhưng dù ở
đâu thì cách tiếp cận này cũng đều không hiệu quả. Vào ngày 11
tháng 4 năm 2024, một nữ doanh nhân ở Việt Nam bị kết án tử hình vì lừa đảo
vay 44 tỷ USD từ một trong những ngân hàng lớn nhất đất nước.
Trương
Mỹ Lan đã lấy số tiền – mà hầu hết là khó có khả
năng thu hồi – ra khỏi Ngân hàng Thương mại Sài Gòn (SCB) bằng cách
lách luật Việt Nam vốn cấm bất kỳ ai sở hữu trên 5% cổ phần của ngân
hàng. Bằng cách sử dụng hàng trăm công ty bình phong [shell
company] (kèm những phương pháp khác), cuối cùng bà đã sở hữu hơn 90%
cổ phần của SCB.
Trong
khi đó, các khoản vay mà bà vay (trị giá gần bằng 10% GDP Việt Nam năm 2024) chiếm tới
93% tổng danh mục cho vay của ngân hàng. Bà ta đã nhân nhiều cơ
hội để rút một lượng lớn tiền mặt và cất giữ dưới tầng hầm nhà mình.
Bà
Lan dự kiến sẽ kháng cáo phán
quyết của tòa án. Nhưng về cơ bản, trường hợp gian lận đặc
biệt này phơi bày những điểm yếu cố hữu của các ngân hàng sử dụng tiền gửi để
tài trợ cho các khoản vay. Nói một cách đơn giản, cứ mỗi 10 đồng gửi vào,
ngân hàng có thể cho vay tới 9 đồng để hỗ trợ các khoản thế
chấp hoặc cho vay doanh nghiệp, chỉ giữ lại 1 đồng làm dự trữ để cho
phép rút tiền.
Nhưng
về mặt lý thuyết, người gửi tiền có thể rút tiền bất cứ khi nào họ muốn, nếu họ
yêu cầu một lượng tiền mặt đặc biệt lớn, ngân hàng có thể không có đủ dự trữ (thanh
khoản – ND) để trang trải. Sau khi bà Lan bị bắt vào năm 2022,
SCB phải đối mặt với tình trạng rút
tiền hàng loạt (khi
một lượng lớn khách hàng cố gắng rút tiền) và kể từ đó ngân hàng
này được đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước.
Để
tránh tình trạng trên, các ngân hàng ở hầu hết các nước đều được quản lý
chặt chẽ. Và kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhiều ngân hàng được
yêu cầu duy trì mức vốn và thanh khoản cao hơn để bù đắp cho các khoản
lỗ trong thời kỳ căng thẳng.
Quy
mô gian lận và tham nhũng diễn ra tại SCB nêu bật tác động tàn khốc mà môi trường
tham nhũng có thể gây ra đối với lĩnh vực tài chính. Các nghiên cứu khác nhau
cho thấy tham nhũng có thể ảnh hưởng xấu đến sự ổn định của ngành ngân
hàng, giảm cho vay và tăng khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng.
Việt
Nam đã phải đối mặt với những thách thức về tham nhũng suốt một thời
gian dài, và phiên tòa xét xử SCB là một phần quan trọng của chiến dịch được gọi
là “Đốt Lò” nhắm vào các chính trị gia và lãnh
đạo doanh nghiệp như một phần trong nỗ lực xóa bỏ tham nhũng khỏi chính phủ Việt
Nam và nền kinh tế.
Nhưng chuyện
có lẽ không đơn giản đến thế.
Có lập luận cho rằng trong một số trường hợp,
tham nhũng thực sự có thể mang lại lợi ích xã hội - nó có thể “bôi trơn bánh
xe” của một nền kinh tế trì trệ. Một số người lập luận rằng những
gì xảy ra với SCB là khá phổ biến (ở quy mô nhỏ hơn) trong nền kinh tế Việt
Nam, và tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể
mà đất nước trải qua trong những năm gần đây (quy mô nền kinh tế đã tăng gấp ba lần kể từ năm
2010) phần lớn là nhờ mức độ tham nhũng cao.
Ý
tưởng này được ủng hộ bởi nghiên cứu cho thấy rằng tham nhũng không phải lúc nào cũng tàn
phá về mặt kinh tế mà trên thực tế có thể đóng vai trò hỗ trợ.
Lý thuyết này cho rằng ở những nơi mà việc quản
lý chậm chạp và nạn quan liêu vô tận, tham nhũng đôi khi có thể đẩy nhanh tiến
độ mọi việc, nhờ bỏ qua những hạn chế kém hiệu quả của bộ máy quan
liêu.
Những
ảnh hưởng của tham nhũng
Trong
một số trường hợp, tham nhũng có thể khiến các doanh nghiệp và tổ chức
hoạt động hiệu quả hơn. Các dự án được khởi động, việc làm ra đời, hợp
đồng được trao. Mọi việc đâu vào đấy.
Quan
liêu hạn chế. Ảnh: Lightspring/Shutterstock
Tất
nhiên, điều này không có nghĩa là cổ xúy cho tham nhũng nhiều
hơn – mà chỉ để minh họa rằng tác động của nó có thể phức tạp hơn
chúng ta nghĩ. Và chúng ta cần nhớ rằng bản thân giới quy định cũng
có thể bị tham nhũng.
Mặc
dù quy định tài chính nhắm vào tham nhũng có thể có hiệu quả, nhưng việc
các cơ quan chức năng có quá nhiều quyền lực điều tiết cũng có
thể sinh ra những hành vi tham nhũng. Nghiên cứu cho thấy rằng điều
này tạo các cơ hội nhận tiền (hối lộ)
đổi lấy các ưu đãi, trợ cấp và hợp đồng chính phủ.
Thậm
chí người ta còn lập luận rằng các quy định
được đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ở Mỹ, cụ thể nhằm ngăn
chặn một cuộc khủng hoảng tương tự, đã tạo ra những rủi ro mới về gia
tăng tham nhũng.
Nhưng hợp
tác quốc tế có thể hữu dụng. Các nền kinh tế tiên tiến như Anh, Mỹ và EU đều là
thành viên của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng,
nơi các hướng dẫn pháp lý cho lĩnh vực ngân hàng được thông qua chung. Điều này
bảo vệ các quốc gia thành viên – và công dân của họ – chống lại tham
nhũng bằng cách thiết lập các tiêu chuẩn chung, giám sát các thủ tục của nhau
và trao đổi thông tin.
Kết
quả là, một trường hợp cực đoan như trường hợp xảy ra ở Việt Nam khó có thể xảy
ra ở phương Tây. Nhưng cần phải cảnh giác liên tục, vì ngay cả các thủ tục và
quy định được đưa ra để duy trì các tiêu chuẩn cao cũng dễ bị ảnh hưởng bởi chính loại
tham nhũng mà chúng được thiết kế để ngăn chặn.
Tác
giả
Giảng
viên Tài chính, Đại học St Andrews
Tuyên
bố công khai
George
Kladakis không làm việc, tư vấn, sở hữu cổ phần trong hoặc nhận tài trợ từ bất
kỳ công ty hoặc tổ chức nào có thể hưởng lợi từ bài viết này và không có sự trực
thuộc nào ngoài giới chuyên môn của mình.
Huỳnh
Thị Thanh Trúc dịch
Nguồn: Extraordinary
Vietnam fraud case exposes the inherent vulnerabilities of banks, The
Conversation, April 24, 2024.
No comments:
Post a Comment