Cục Xuất bản không thể tự nêu ý kiến về sách của Ocean
Vương, vì sao thế?
Thúy Mùi - Luật Khoa Tạp Chí
MAY
17 2024 7:19 PM
HÌNH
: https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1000/format/webp/2024/05/Sa-ch-Nha--Nam.jpeg
“Một
thoáng ta rực rỡ ở nhân gian” của tác giả Ocean Vương. Nguồn ảnh: Nhã Nam.
Việc
tiểu thuyết “Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian” của Ocean Vương được một trường
quốc tế tại thành phố Hồ Chí Minh đưa vào chương trình Văn học tiếng Việt đã
gây ra tranh cãi sôi nổi ở Việt Nam.
Các
tranh cãi này dẫn tới quyết định “phản cảm” của cơ quan quản lý về giáo dục và
văn hóa. [1] Cụ thể, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu nhà
trường thu hồi 19 cuốn sách đã phát cho học sinh, và kiểm điểm, phê bình giáo
viên [2]; Cục Xuất bản, In và Phát hành (sau đây gọi tắt là Cục Xuất bản) yêu cầu
Nhà xuất bản Hội nhà văn thẩm định lại nội dung sách, và nhờ một số giáo sư đầu
ngành đọc, đưa ra ý kiến.
Phản
ứng của cơ quan nhà nước trong việc này không hề khác những việc đã từng xảy
ra. Đầu tiên, một hoặc một nhóm người tạo sóng gió trên mạng xã hội (thường là
Facebook) dựa trên một góc nhìn đạo đức hoặc thẩm mỹ nào đó.
Sau
đó, các tranh cãi này được chuyển sang kênh báo đài. Cơ quan nhà nước e ngại
“dư luận xã hội”, phản ứng bằng cách xử phạt người gây tranh cãi và cấm lưu
hành nhân tố gây tranh cãi.
Nói
cách khác, hành động của cơ quan nhà nước thường mang tính thụ động, không hướng
tới việc tìm giải pháp cho vấn đề và tương tác tử tế với xã hội. [3]
Trường
quốc tế - nơi bắt đầu câu chuyện - chỉ là một trong số gần 3.000 trường trung học
phổ thông trên toàn quốc có giảng dạy môn Văn. [4] Số sách bị thu hồi chỉ là 19
trong số hàng vạn bản được phát hành. [5]
Cục
Xuất bản yêu cầu thẩm định lại một cuốn sách đã được cấp phép phát hành. Người
đứng đầu của cơ quan này cũng không thể tự đưa ý kiến của mình mà phải nhờ, chờ
chuyên gia. Vì sao có hiện tượng này?
Một
chuyên gia đã nhìn vụ việc từ góc nhìn chính sách và chỉ ra việc thiếu quy
trình tuyển lựa, hướng dẫn thực hành và cơ chế đối thoại khi học sinh tiếp xúc
với các tác phẩm có yếu tố nhạy cảm. [6]
Tuy
nhiên, tác giả chưa thấy học giả luật nào tham gia vào cuộc tranh luận này. [7]
Vì vậy, bài viết góp thêm một góc nhìn từ khía cạnh quyền tình dục (right to
sexuality) và quyền tự do biểu đạt (freedom of expression).
Toàn
cảnh tranh luận
Mặc
dù bài viết tập trung vào phản ứng của chính quyền dưới góc độ quản trị xã hội,
nhưng trước hết, việc tổng hợp các tranh luận (diễn ngôn) giúp độc giả có thể
hình dung về bức tranh tổng thể.
Vụ
việc bắt đầu từ Facebook - mạng xã hội chính mà người dùng tạo nội dung và
tương tác ở Việt Nam. [8] Sau đó, báo chí, truyền thông gồm nhiều báo chính thống
[9], báo tư nhân [10], hoặc báo theo mô hình nước ngoài [11] là diễn đàn để các
nhóm khác nhau và các chuyên gia nêu ý kiến.
Nhóm
cơ bản tham gia tranh luận là phụ huynh học sinh. Những ý kiến tranh luận xoay
quanh tình dục đồng tính và việc để học sinh phổ thông tiếp cận với văn bản này
đã được một Facebooker tổng hợp lại. [12]
Điều
đáng chú ý là các ý kiến này đều thể hiện sự liên hệ giữa tình dục và cảm giác
nhục nhã [13] - nội dung vốn ít được nghiên cứu và thảo luận thẳng thắn ở Việt
Nam.
Các
học sinh, đối tượng chủ yếu của sự lo lắng đến từ cha mẹ, không xuất hiện công
khai để chia sẻ ý kiến của mình. [14]
Nhóm
ý kiến khác thuộc về các nhà văn hoặc người nghiên cứu văn học. Họ chia sẻ quan
điểm với báo chí [15], hoặc đăng ý kiến trên Facebook [16], hoặc tạp chí. [17]
Các
ý kiến này chỉ ra cho độc giả giá trị văn chương đích thực của tiểu thuyết, đồng
thời gợi mở vài biện pháp để sử dụng sách an toàn trong trường học.
Một
số ý kiến mang tính kỹ thuật khác đề xuất việc dán mác độ tuổi cho sách theo mô
hình một số nước nói tiếng Anh. [18] Tuy nhiên, các ý kiến này hoàn toàn không
đề cập tới những thiết chế (ví dụ thư viện công) và nguồn lực (những người đọc
và chọn sách chuyên nghiệp) cần thiết cho việc thực hiện ý tưởng. [19] Trong
khi đó, người đọc thế hệ trước chia sẻ rằng việc học trò đọc tác phẩm có mô tả
tình dục không phải là hiện tượng mới. [20]
Tất
cả các loại ý kiến này không hề nhắc tới quyền tình dục (right to sexuality) và
quyền tự do biểu đạt như là các quyền con người cơ bản (human rights).
Các
chuyên gia, học giả về quyền con người cũng không tham gia vào cuộc tranh luận.
Điều này cho thấy nhận thức pháp luật (legal consciousness) về quyền tình dục
chưa phải là một phần của đời sống xã hội/thảo luận công cộng ở Việt Nam. [21]
Nhận
thức của cơ quan nhà nước
Quyền
tình dục là một quyền con người. Như các quyền khác, quyền tình dục tồn tại
cùng với quyền tự do biểu đạt (freedom of opinion and expression). [22]
Tác
phẩm của Ocean Vương chính là một biểu hiện của quyền tự do biểu đạt. [23]
Quyền
con người đòi hỏi một cơ chế quản trị và khung pháp lý đặt quyền con người là
trung tâm. Việc của cơ quan quản lý là xây dựng/phát triển các chuẩn mực ứng xử
tôn trọng quyền con người và đảm bảo thực hiện các quyền đó. Nói cách khác, nhà
nước thực hiện công việc của mình để đảm bảo tính phổ quát (universality) của
các quy định ứng xử (legal norms) do nhà nước ban hành. [24]
Quyền
tình dục mới chỉ được nhắc tới ở Việt Nam trong thời gian gần đây như hệ quả của
quá trình hội nhập kinh tế. Việt Nam cũng đã tham gia một số công ước quốc tế về
quyền con người.
Một
số học giả luật tranh luận rằng khuôn khổ pháp luật về quyền tình dục ở Việt
Nam còn sơ sài và mơ hồ. [25] Nhận định này phù hợp với góc nhìn của học giả quốc
tế rằng khung quản trị (governance) của Việt Nam bị phân mảnh/rời rạc
(fragmented) sau vài thập kỷ đổi mới. [26]
Tranh
luận học thuật về quyền tình dục vừa ít về số lượng, vừa bị hạn chế bởi không
gian tranh luận (một vài tạp chí nội địa) [27] và ngôn ngữ (tiếng Việt).
Nhận
thức của các cơ quan nhà nước (ví dụ: cấp trung ương, địa phương), ngành/lĩnh vực
(ví dụ: giáo dục, văn hóa) và các quan chức về quyền con người, quyền tình dục
là rất khác nhau.
Không
gian học thuật để thảo luận về chủ đề này hạn chế ở một số tạp chí chuyên ngành
xuất bản bằng tiếng Việt (ví dụ: Nghiên cứu lập pháp). Hiện chưa có khảo sát
nào cho thấy sự bao phủ của các tạp chí này tới các ngành như văn hóa hay giáo
dục. Các học giả về giới, quyền con người thường tập trung vào việc xuất bản
nghiên cứu của họ tại nước ngoài thay vì đối thoại và/hoặc tư vấn cho nhà nước.
Ngôn
ngữ (tiếng Anh, tiếng Việt) là một rào cản khác cho nhận thức về quyền con người
của quan chức Việt Nam. Các tài liệu hướng dẫn quốc tế dành cho thực hành
(practitioner guide) đều được công khai trên internet.
Tuy
nhiên, cơ quan nhà nước thường không biết đến hoặc không được đào tạo về các loại
chủ đề này. Những người làm công việc đối ngoại hay được đào tạo ở nước ngoài
thường học được các kỹ thuật báo cáo theo tiêu chuẩn tiếng Anh.
Việc
sử dụng thành thạo tiếng Anh tại các diễn đàn quốc tế không đồng nghĩa với sự tồn
tại của quyền tình dục và quyền tự do biểu đạt ở trong nước (vỏ ngôn ngữ có thể
không tương thích với nội dung - normative content).
Ví
dụ, báo cáo mới nhất của Việt Nam trình Hội đồng nhân quyền của Liên Hợp Quốc
có đầy đủ các hạng mục theo yêu cầu. [28] Mặc dù vậy, báo cáo vẫn thiếu nhiều bằng
chứng cụ thể cho việc thực hiện các cam kết về quyền con người, trong đó có quyền
tự do biểu đạt.
Ngôn
ngữ diễn đạt là tiếng Anh nhưng cách tiếp cận là Việt Nam, theo đó, các cụm từ
không rõ nghĩa được sử dụng để biểu đạt văn hóa. [29] Trong khi đó, bản tiếng
Anh của báo Nhân Dân chỉ đưa tin ngắn gọn việc Việt Nam nhận được 300 đề xuất
liên quan tới quyền con người. [30] Không có khảo sát hay báo cáo nào cho biết
liệu các quan chức trong nước có biết tới các đề xuất cụ thể này.
Trở
lại câu chuyện, phát biểu và hành động của cơ quan quản lý văn hóa và giáo dục
về “Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian” cho thấy khoảng trống lớn trong nhận thức
về quyền tình dục và quyền tự do biểu đạt theo các cam kết quốc tế của Việt
Nam.
Nó
cho thấy những mảnh ghép rời rạc trong diễn ngôn chính trị về quyền tình dục,
và quyền tự do biểu đạt.
Trên
hết, nó cho thấy sự thiếu cố gắng của nhà nước/bộ máy chính quyền trong việc nhận
diện, xử lý vấn đề.
Hành
động theo khuôn mẫu cũ của “thu hồi, kiểm điểm” là một thói quen hệ thống xa rời
với các giá trị phổ quát của nhân loại.
Thay
vì mở rộng không gian dân sự cho tranh luận, tạo chuẩn mực rõ ràng để hướng dẫn
hành vi, việc quay lại với khuôn mẫu cũ trong bối cảnh phát triển vũ bão của
công nghệ có thể gây những thiệt hại lâu dài tới thế hệ tương lai.
---------------------------
Chú
thích:
[1] Về
thuật ngữ “phản cảm” và quyết định của các cơ quan nhà nước khi sử dụng từ này,
độc giả có thể biết thêm qua bài viết
này. Theo ý kiến tác giả, chính quyết định của các cơ quan nhà nước liên
quan tới tiểu thuyết của Ocean Vương mới là phản cảm.
[2]
Quế Chi - Hà Thu, 'Sách của Ocean Vuong không phải truyện khiêu dâm',
VnExpress. https://vnexpress.net/sach-cua-ocean-vuong-khong-phai-truyen-khieu-dam-4741605.html
[3] Tác
giả dùng cụm từ “tử tế” theo nghĩa làm đúng phận sự của cơ quan quản trị là tạo
khung pháp lý rõ ràng và quy trình minh bạch để mọi tổ chức, công dân có thể
hành xử theo luật và biểu đạt ý kiến của mình mà không ngại bị trừng phạt.
[4]
Hà An, Địa phương nào tăng nhiều trường THPT nhất trong năm học vừa qua?,
giaoduc.net. https://giaoduc.net.vn/dia-phuong-nao-tang-nhieu-truong-thpt-nhat-trong-nam-hoc-vua-qua-post236983.gd
[5]
Đây chỉ là con số ước tính. Tác giả không có số liệu chính xác.
[6] Lang
Minh, Đưa tác phẩm văn học đương đại vào chương trình phổ thông: Không thể bỏ
mặc giáo viên tự xoay xở. https://khoahocphattrien.vn/chinh-sach/dua-tac-pham-van-hoc-duong-dai-vao-chuong-trinh-pho-thong-khong-the-bo-mac-giao-vien-tu-xoay-xo/20240509100033806p1c785.htm
[7] Văn
học và Luật luôn có mối liên hệ với nhau vì cùng sử dụng chữ viết để tạo lập
văn bản hướng dẫn hành vi ứng xử trong xã hội.
[8] Theo
Statista, Facebook là mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất ở Việt Nam. Do hạn chế
về ngôn ngữ cũng như lịch sử phát triển mạng xã hội ở Việt Nam, người dùng Việt
ít tương tác trên các mạng khác như X (trước đây là Twitter) hay Reddit. https://www.statista.com/statistics/941843/vietnam-leading-social-media-platforms/
[9] Ví
dụ, xem: Một
thoáng tranh luận về 'dâm thư' của Ocean Vương (Tiền phong), 'Sách
của Ocean Vuong không phải truyện khiêu dâm' (VnExpress).
[10]
Lên tiếng vụ "trường quốc tế phát sách 18+", một hot mom bị mắng:
"Không biết phân biệt sách giáo dục giới tính và văn học!", Kenh 14. https://kenh14.vn/len-tieng-vu-truong-quoc-te-phat-sach-18-mot-hot-mom-bi-mang-khong-biet-phan-biet-sach-giao-duc-gioi-tinh-va-van-hoc-20240508200623846.chn
[11]
Sơn Hoàng, Sách nhạy cảm trong trường quốc tế: Tranh luận "dâm hay
không dâm" là chưa đủ, Vietcetera. https://vietcetera.com/vn/sach-nhay-cam-trong-truong-quoc-te-tranh-luan-dam-hay-khong-dam-la-chua-du
[12]
Tham khảo thêm tại đây.
[13]
Shadbolt, C. (2009). Sexuality and Shame. Transactional Analysis Journal,
39(2), 163–172. https://doi.org/10.1177/036215370903900210
[14] Sách
của Ocean Vương đã được giới thiệu với học sinh khối công lập https://tienphong.vn/mot-thoang-tranh-luan-ve-dam-thu-cua-ocean-vuong-post1634574.tpo
[15]
Quế Chi - Hà Thu, 'Sách của Ocean Vuong không phải truyện khiêu dâm',
VnExpress. https://vnexpress.net/sach-cua-ocean-vuong-khong-phai-truyen-khieu-dam-4741605.html
[16]
Tham khảo thêm tại
đây.
[17]
[REVIEW SÁCH HAY] MỘT THOÁNG TA RỰC RỠ Ở NHÂN GIAN: HUY ĐỘNG KÝ ỨC ĐỂ SỐNG SÓT,
ELLE Team. https://www.elle.vn/the-gioi-van-hoa/mot-thoang-ta-ruc-ro-o-nhan-gian
[18]
Huyền Chi, Tranh cãi chuyện dán nhãn phân loại độ tuổi dành cho sách,
Lao động. https://laodong.vn/van-hoa-giai-tri/tranh-cai-chuyen-dan-nhan-phan-loai-do-tuoi-danh-cho-sach-1338005.ldo
[19]
Về cuộc tranh luận liên quan tới dãn mác sách theo độ tuổi ở thư viện Mỹ, xem https://www.npr.org/transcripts/1214523941.
[20]
Hoài Nam, Học trò đọc sách tả cảnh sex, nhiều người kể xưa chuyền tay "cô
giáo Thảo", Dân trí. https://dantri.com.vn/an-sinh/hoc-tro-doc-sach-ta-canh-sex-nhieu-nguoi-ke-xua-chuyen-tay-co-giao-thao-20240503115820306.htm
[21] Về
khái niệm “ý thức pháp luật”, xem Chua, L.J., & Engel, D.M. (2019). Legal
Consciousness Reconsidered. Annual Review of Law and Social Science.
Lưu ý rằng khái niệm này dựa trên nghiên cứu liên ngành xã hội học-luật theo đó
ý thức pháp luật thể hiện ở việc công dân và cộng đồng hành động có ý thức để
thực hiện quyền con người và/hoặc đòi hỏi nhà nước đảm bảo quyền con người. Nó
khác với khái niệm “ý thức pháp luật” vốn được dịch từ tài liệu Xô-Viết và giảng
dạy tại các trường luật ở Việt Nam (gắn với các chương trình nhà nước thực hiện
để “tuyên truyền-phổ biến-giáo dục pháp luật). Lynette J Chua cũng là học giả
nghiên cứu về quyền tình dục của các nhóm thiểu số như người chuyển giới, đồng
giới tại một số nước châu Á. Xem các công trình nghiên cứu này tại https://www.semanticscholar.org/author/Lynette-J.-Chua/51884234.
[22]
Tham khảo thêm tại
đây.
[23]
Về mối liên hệ giữa quyền con người, quyền tình dục, và quyền tự do biểu đạt,
giữa công dân và nhà nước, xem thêm Miller AM. Human Rights and Sexuality:
First Steps Toward Articulating a Rights Framework for Claims to Sexual Rights
and Freedoms. Proceedings of the ASIL Annual Meeting.
1999;93:288-303. doi:10.1017/S0272503700067781; Nurse, A. (2020);
"Exploring Creativity and Sexuality: Freedom of Expression
Expanded", The Citizen and the State, Emerald Publishing
Limited, Leeds, pp. 127-139. https://doi.org/10.1108/978-1-78973-039-520201009
[24] Tính
phổ quát đòi hỏi các chuẩn mực đạo đức/hành vi ứng xử được áp dụng bình đẳng đối
với mọi thành viên/tầng lớp trong xã hội.
[25]
Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm, Vấn đề quyền về tình dục trên thế giới và ở
Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp. http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208004
[26]
Thaveeporn Vasavakul, Governance Support Facility Initiatives, California, Vietnam:
A Pathway from State Socialism. https://www.cambridge.org/nz/universitypress/subjects/politics-international-relations/south-east-asian-government-politics-and-policy/vietnam-pathway-state-socialism?format=PB&isbn=9781108459075.
Xem thêm Phuong, P. Q. (2022). From “Social Evils” to “Human Beings”: Vietnam’s
LGBT Movement and the Politics of Recognition. Journal of Current
Southeast Asian Affairs, 41(3), 422-439. https://doi.org/10.1177/18681034221108748
[27]
Ví dụ, xem Hoàng Thị Hải Yến, Một số vấn đề về quyền tình dục và quyền tình dục
trong quan hệ hôn nhân gia đình, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn, số 38/2019,
trang 111-121.
[28]
Đọc báo cáo của Việt Nam tại Phiên kiểm điểm định kỳ phổ quát UPR tại
đây.
[29] Ví
dụ: xem trang 8, mục 45: “the media in Viet Nam operates freely; press
and publishing agencies are not subject to censorship before printing,
transmission, or broadcasting”; mục 47: “Viet Nam strives to
develop a legal framework to ensure a safe and healthy information environment
for the effective exercise of freedom of the press and expression in the
digital society, digital transformation, and to deal with acts obstructing the
exercise of these rights”; trang 13, mục 88: “the Cultural Development
Strategy until 2030 determined that cultural development should be promoted on
an equal footing and in harmony with economic, political and social
development. It sets out major goals for comprehensive development of Vietnamese
culture and people in accordance with the trends of times, promoting a healthy
cultural environment, enhancing the spiritual life of the people and gradually
narrowing the gap in cultural enjoyment between urban and rural areas and among
different regions with focus on areas of ethnic minority”.
[30]
Vietnam's human rights record hailed at UN review, Nhân dân. https://en.nhandan.vn/vietnams-human-rights-record-hailed-at-un-review-post135404.html#:~:text=The%20rights%20to%20healthcare%2C%20education,have%20also%20improved%2C%20he%20said
No comments:
Post a Comment