Thứ Hai, 07/27/2020 -
16:48 — songchi
Chính Mỹ đã tạo ra
con quái vật của Frankenstein.
Những ngày gần đây quan hệ
Mỹ-Trung trở nên xấu hẳn đi, sự việc hai bên yêu cầu đóng cửa lãnh sự quán của
nhau tại Houston (ngày 24.7) và Thành Đô (ngày 27.7) là một trong những bước
leo thang mới nhất. Không ít nhà bình luận chính trị trên các tờ báo quốc tế đã
đặt ra câu hỏi liệu quan hệ giữa hai bên sẽ xuống thấp đến mức nào, hay liệu có
khả năng xảy ra một cuộc xung đột quân sự trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ sắp tới
hay không.
Một điều rõ ràng hơn mà
ai cũng công nhận, đó là quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc từ bây giờ trở đi sẽ
thay đổi, như chính lời ông Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã nói thẳng trong bài
diễn văn tại Bảo tàng Thư viện Quốc gia Richard Nixon, thành phố Yorba Linda,
bang California ngày 23.7 vừa qua.
Nhiều nhà bình luận quốc
tế cũng nhận xét, không phải ngẫu nhiên mà Mike Pompeo chọn Thư viện mang tên cố
Tổng thống Richard Nixon để có bài phát biểu nói lên mối đe dọa của chế độ độc
tài Trung Cộng đối với mọi mặt của Mỹ cũng như cho tương lai của các nền dân chủ
tự do trên toàn thế giới.
Non nửa thế kỷ trước, Cố
Tổng thống Richard Nixon là người đã thực hiện chiến lược mở cửa kinh tế đối với
Trung Quốc, với hy vọng rằng sự hội nhập với thế giới sẽ giúp cho chế độ độc
tài toàn trị của Trung Cộng thay đổi, bởi vì “thế giới không thể an
toàn cho đến khi Trung Quốc thay đổi” ("The world cannot be
safe until China changes", Richard M. Nixon, "Asia
after Vietnam").
Nhưng điều đó đã không xảy
ra, ngược lại sau 50 năm nước Mỹ và thế giới cay đắng nhận ra Trung Cộng đã trục
lợi từ sự mở cửa đó để làm giàu, ăn cắp việc làm, các phát minh, chất xám cùa Mỹ
và các cường quốc phương Tây, đã đặt luật chơi cho các nước, tìm mọi cách xói
mòn, phá hoại các nền dân chủ trên thế giới và giờ đây đã trở thành con quái vật
của Frankenstein, như chính lo ngại của Cố Tổng thống Nixon. Chính vì vậy,
chính sách của Mỹ, như Ngoại trưởng Mike Pompeo nói, phải thay đổi.
Không chỉ có Mỹ, nhiều quốc
gia trên thế giới cũng đã nhận ra điều này. Đại dịch COVID-19, sự hung hăng của
Bắc Kinh trên Biển Đông, hồ sơ nhân quyền tồi tệ đối với người Duy Ngô Nhĩ, luật
An ninh mạng Hong Kong, vụ đụng độ quân sự với Ần độ tại biên giới hai nước
v.v…Tất cả đã cho thấy gương mặt hung hăng, hiếu chiến, đầy tham vọng và tàn ác
của chế độ độc tài Bắc Kinh.
Anh: Chính phủ Anh gần đây cũng đã có những động thái mạnh mẽ hơn với Trung
Cộng, từ việc tuyên bố mở đường nhập tịch cho gần 3 triệu công dân Hong Kong,
loại bỏ Huawei khỏi hệ thống phát triển mạng 5G vào năm 2027– chấm dứt 20 năm hợp
tác, cân nhắc việc áp đặt các lệnh trừng phạt đối với các quan chức cao cấp
của chính quyền Hong Kong cũng như các quan chức Trung Quốc chịu trách nhiệm về
việc đàn áp người Uighurs; các nhà hoạch định quân sự Anh cũng đang có kế hoạch
đưa tàu sân bay HMS Queen Elizabeth, chiến hạm lớn nhất lịch sử hải quân Anh, đến
đồn trú ở Thái Bình Dương...
Úc: Sau tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào ngày 13.7, bác bỏ những đòi
hỏi về chủ quyền hàng hải của Trung Cộng trên biển Đông, chính phủ Úc đã gửi
công hàm chính thức đến Liên Hiệp Quốc vào ngày 23.7, bác bỏ hoàn toàn các
tuyên bố của Trung Quốc về lãnh hải dựa trên UNCLOS 1982. So với tuyên bố của Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ không bác bỏ quyền đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc (và các
quốc gia khác) tại quần đảo Trường Sa, công hàm của Úc còn rõ ràng, đầy đủ và
đi xa hơn khi không chấp nhận tuyên bố chủ quyền của TQ tại Hoàng Sa và Trường
Sa, trên các hòn đảo nhân tạo hay bất cứ đâu trên biển Đông.
Nhật Bản: Sách trắng Quốc Phòng thường niên của Nhật Bản công bố ngày 14.7, tố
cáo Trung Cộng lợi dụng đại dịch đẩy mạnh các hoạt động đòi chủ quyền gần các đảo
có tranh chấp ở biển Hoa Đông cũng như ở Biển Đông (Nhật và Trung Quốc có tranh
chấp đối với quần đảo mà Nhật gọi là Sensaku, Trung Quốc gọi là Điếu Ngư), tố
cáo Bắc Kinh “tuyên truyền” và “thông tin sai” về đại dịch COVID-19. Nhật cũng
bày tỏ lo ngại rằng Bắc Kinh hiện chi tiêu cho quốc phòng gấp bốn lần Tokyo và
Trung Quốc là mối đe dọa lâu dài và nghiêm trọng hơn cả Triều Tiên.
Ấn độ: Sau cuộc đụng độ đẫm máu với Trung Quốc tại thung lũng Galwan ở phía
tây dãy Himalaya vào ngày 15.6 khiến 20 người lính Ấn thiệt mạng và hàng chục
người của hai bên bị thương, làn sóng tẩy chay hàng hóa Trung Quốc và tinh thần
dân tộc đã dâng cao tại Ấn độ.
Canada: Mối quan hệ giữa Canada với Trung Cộng cũng xấu đi từ sau vụ Canada bắt
giữ bà Mạnh Văn Chu, giám đốc tài chính của tập đoàn công nghệ Trung Quốc
Huawei, theo yêu cầu của Mỹ vào năm 2018. Trung Quốc sau đó trả đũa bằng việc bắt
giữ 2 công dân Canada với cáo buộc “gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia”.
Gần đây Canada đã lên tiếng
chỉ trích luật an ninh quốc gia mà Bắc Kinh vừa áp đặt ở Hong Kong, đã đình chỉ
hiệp ước dẫn độ với Hong Kong, đồng thời ngưng xuất khẩu các trang thiết bị
quân sự nhạy cảm sang Hong Kong. Canada cũng xem xét mở rộng các diện nhập tịch
cho người Hong Kong. Tất nhiên, Bắc Kinh đã lên tiếng chỉ trích Canada và đe dọa
trả đũa kinh tế, những động thái này khiến cho mối quan hệ giữa hai nước càng
căng thẳng.
Chưa kể các nước nhỏ yếu
hơn Trung Cộng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương từ VN, Philippines, Đài
Loan… đều bị Trung Quốc o ép, bắt nạt và luôn có thái độ cảnh giác đối với
Trung Cộng.
Nói tóm lại, Trung Cộng
giờ đây đang phải đối mặt với làn sóng nghi ngại hoặc thù địch ngấm ngầm từ nhiều
quốc gia trên khắp thế giới. Hậu quả này là do chính sách kinh tế trục lợi,
chính sách ngoại giao hung hăng của Bắc Kinh.
Sự hung hăng này có lẽ do
Bắc Kinh quá tự tin vào mình, và nhìn thấy một thời cơ khá thuận lợi khi Mỹ
đang dần từ bỏ vai trò lãnh đạo trên thế giới, mối quan hệ giữa Mỹ và các nước
đồng minh lâu đời từ Âu sang Á bị xói mòn, khối EU cũng mạnh ai nấy lo, cộng
thêm đại dịch COVID-19 khiến nước nào cũng lao đao, trong đó Mỹ là quốc gia bị
nặng nhất. Nhưng khi Bắc Kinh hùng hổ hơn, thì cũng giúp cho nhiều nước tỉnh
ra.
Tình hình hiện nay chưa đến
nỗi như thời kỳ chiến tranh lạnh với hai phe tự do, dân chủ, tư bản chủ nghĩa
do Hoa Kỳ đứng đầu chống lại phe độc tài, xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu.
Nhưng nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục tham vọng của họ thì điều đó sẽ xảy ra,
và lần này, như ngoại trưởng Mike Pompeo nói, thế giới phải thay đổi và buộc
Trung Cộng thay đổi. If the free world doesn’t change – doesn’t change,
communist China will surely change us. There can’t be a return to the past practices
because they’re comfortable or because they’re convenient. ("Nếu
thế giới tự do không thay đổi, Trung Quốc cộng sản chắc chắn sẽ thay đổi chúng
ta. Chúng ta không thể quay lại cách thức hành động trong quá khứ chỉ vì nó thoải
mái hay thuận tiện")
Không chỉ là mối đe dọa đối
với mọi thể chế tự do, dân chủ và sự ổn định trên thế giới, Trung Cộng là một
chế độ độc tài tàn ác. Lịch sử đảng cộng sản Trung Quốc là một lịch sử đẫm máu
người dân Trung Hoa qua các phong trào Cải cách ruộng đất, Đại Nhảy Vọt, Cách mạng
Văn hóa, thảm sát Thiên An Môn… cho đến những chính sách tiêu diệt văn hóa, bản
sắc, tôn giáo, hành hạ, tra tấn, giết hại, “tẩy não” người Duy Ngô Nhĩ, người
Tây Tạng xuyên suốt mấy chục năm qua, tra tấn, bức hại hàng chục ngàn, hàng triệu
học viên Pháp Luân Công v.v…So với chế độ phát xít Đức, chế độ độc tài cộng sản
Trung Quốc còn tàn ác hơn gấp bội, vì nó tồn tại lâu hơn nhiều.
Trong tương lai nếu có một
cuộc chiến tranh thế giới thứ ba xảy ra, thì đó chắc chắn phải là cuộc chiến của
các nước tự do, dân chủ chống lại Trung Cộng.
Việt Nam sẽ đứng ở đâu
trong hiện tại và cái tương lai ấy?
****
Thứ Hai, 07/27/2020 -
16:55 — songchi
VN-chọn lựa sai và
luôn lỡ tàu
Trong suốt một thời gian
dài kể từ khi ra đời vào năm 1930, nắm chính quyền ở MB vào năm 1945 và độc quyền
lãnh đạo trên toàn quốc từ tháng 4.1975, đảng cộng sản VN đã có rất nhiều sự chọn
lựa, bước đi sai lầm. Chọn sai mô hình thể chế chính trị, chọn sai đường đi, chọn
sai đồng minh, bạn bè. Sự sai lầm đó không chỉ dẫn đến cuộc nội chiến huynh đệ
tương tàn suốt 20 năm, cuộc chiến biên giới Việt-Trung, cuộc chiến biên giới
Tây Nam…mà còn khiến VN trở thành một quốc gia thất bại về nhiều mặt như hiện tại.
Cũng đã rất nhiều lần, VN
bỏ lỡ nhiều cơ hội để thay đổi, tất cả chỉ vì sự tham quyền cố vị, tầm nhìn hẹp
hòi, luôn luôn đặt quyền lợi của đảng, của chế độ lên trên quyền lợi của đất nước,
dân tộc, và cả sự thiếu tự tin của đảng và nhà nước cộng sản VN.
Năm nay cũng là năm kỷ niệm
25 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt-Mỹ (1995-2020), nhưng bất chấp
những nhận định đầy “tự hào, lạc quan” của báo chí nhà nước hay của một số quan
chức VN, trong suốt quãng đường 25 năm ấy VN cũng chẳng đi được bao xa. Học
theo Trung Cộng, VN cũng tìm cách lợi dụng cơ hội mở cửa với thế giới để làm
ăn, tăng trưởng về kinh tế nhưng vẫn không muốn thay đổi một chút nào về thể chế
chính trị.
Hậu quả của việc chỉ mở cửa
về kinh tế mà không thay đổi mô hình thể chế chính trị đó đã khiến cho VN không
thể cất cánh trở thành một quốc gia giàu mạnh, tự lực tự cường, bởi nạn tham
nhũng nặng nề và những “khuyết tật” nghiêm trọng của một chế độ độc tài toàn trị
không có cơ chế kiểm soát quyền lực, không có một nền pháp luật nghiêm minh là
những sức cản rất lớn. Người dân không có một cuộc sống tự do, hạnh phúc, bình
yên thực sự trong tâm hồn. Chế độ độc tài toàn trị ngu dân cỏn tiêu diệt lương
tri, tính thiện, lẫn tài năng của con người. Đối ngoại, VN vẫn tiếp tục bị
Trung Cộng o ép, bắt nạt vì không có ai là đồng minh.
Cho đến bây giờ có lẽ đảng
và nhà nước cộng sản VN đã quá hiểu rõ nếu tiếp tục nhịn nhục, làm bạn với
Trung Cộng thì chỉ có thiệt thòi, nguy hiểm, phải đối diện với nguy cơ mất độc
lập chủ quyền, và trong tương lai, có nguy cơ bị xếp vào cùng một trục với phe
Ác nếu thế giới chia phe.
Cho đến bây giờ có lẽ đảng
và nhà nước cộng sản VN đã hiểu rằng Hoa Kỳ cũng không có nhu cầu can thiệp vào
chuyện nội bộ, làm thay đổi thể chế chính trị của VN. Mà nếu có mất đảng, mất
chế độ là do chính họ-nếu họ vẫn tiếp tục tạo ra những bất công ngang trái
trong xã hội, tiếp tục đàn áp nhân dân đến một ngày người dân không chịu được,
phải “tức nước vỡ bờ” mà thôi.
Con đường duy nhất đối với
VN là phải thay đổi, bước đầu tiên là tìm cách thoát dần khỏi mối lệ thuộc kinh
tế lẫn chính trị từ Trung Quốc, tăng cường hợp tác với các nước, tiến dần từng
bước theo hướng dân chủ hóa để giải phóng đất nước khỏi mọi sự trì trệ, kìm
hãm, giải phóng triệt để sức dân, đưa đất nước trở thành phồn thịnh, tự cường.
Thời cơ thuận lợi từ bên ngoài đã có, còn lại, sự thay đổi chỉ có được từ cả
hai phía: nhà nước và sức ép của nhân dân.
Nhiều nhà báo, nhà bình
luận chính trị thế giới đã nhận xét rằng, nếu thế giới không cùng hợp tác ngăn
chặn, kìm hãm Trung Cộng từ bây giờ, thì chỉ trong vòng 5-10 năm nữa thôi, sẽ
là quá muộn.
Cũng như thế, với VN, nếu
không thay đổi thì 5-10 năm nữa VN sẽ hoàn toàn không thể thoát khỏi Trung Cộng.
No comments:
Post a Comment