Sandy Cay: Chiến Thuật
"Cắt Lát" Uy Tín Hoa Kỳ Và An Ninh Biển Đông Của Trung Quốc
Tác
giả: Lynn Kuok | Foreign Policy -
ngày 1/6/2025
Biên
dịch: Hạo Nhiên | Hiệu đính: Hương Nguyễn | Dự án Đại Sự Ký Biển Đông
HÌNH
:
Một
trong bốn dải cát thuộc cụm Sandy Cay. (Đá Hoài Ân chỉ là một dải cát trong cụm
Sandy Cay nên chúng tôi giữ nguyên tên tiếng Anh của thực thể). Ảnh: Wikipedia
Hoạt
động của Trung Quốc tại Biển Đông một lần nữa đang gia tăng – nhưng hầu như
không thu hút được chú ý của quốc tế. Tháng trước, lực lượng hải cảnh Trung Quốc
đã sử dụng vòi rồng để tấn công các tàu cá của Philippines, gây ra một vụ xung
đột ở gần cụm cồn cát Sandy Cay, nơi đang nhanh chóng trở thành một tâm điểm
gây áp lực mới của Trung Quốc và sự phản kháng của Philippines tại Biển Đông. Sự
kiện này xảy ra nối tiếp việc Trung Quốc kéo quốc kỳ trên cụm dải cát này vào
cuối tháng Tư – lần khẳng định chủ quyền đầu tiên trong hơn một thập kỷ qua đối
với một vùng lãnh thổ bỏ trống. Động thái này diễn ra trong bối cảnh Hoa Kỳ và
Philippines đang tiến hành các cuộc diễn tập quân sự chung, và khi các chính phủ
nước ngoài vẫn đang vật lộn với mức thuế do chính quyền Hoa Kỳ của Tổng thống
Donald Trump áp đặt.
Lần
gần nhất Trung Quốc thực hiện một động thái tương tự là vào năm 2012, khi các lực
lượng hải quân Philippines bắt giữ ngư dân Trung Quốc gần bãi cạn Scarborough.
Bắc Kinh đã tăng cường sự hiện diện của lực lượng hải cảnh và dân quân biển, cuối
cùng thiết lập kiểm soát thực tế đối với khu vực này.
Bãi
cạn Scarborough vẫn là vùng đất chưa có bên nào chiếm đóng, nhưng Trung Quốc
duy trì sự kiểm soát, tùy ý cho phép hoặc ngăn cản ngư dân Philippines tiếp cận,
bất chấp phán quyết của tòa án quốc tế vào năm 2016 cho phép ngư dân
Philippines, Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan có quyền đánh bắt truyền thống tại
khu vực này và hành động của Trung Quốc là sự cản trở đối với các quyền đó.
Việc
tuyên bố chủ quyền đối với Sandy Cay không trái luật – Trung Quốc, Đài Loan,
Philippines và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền đối với khu vực này. Nằm ngoài
vùng 200 hải lý đặc quyền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, phần lớn Sandy Cay vẫn
nổi trên mặt nước khi thủy triều lên, và về mặt pháp lý, tự nó đủ điều kiện về
chủ quyền. Xét về mặt lý thuyết, cả bốn bên tuyên bố chủ quyền đều có quyền đưa
ra tuyên bố đó.
Tuy
nhiên, điều đáng lo ngại là việc khẳng định chủ quyền đối với một lãnh thổ chưa
từng thuộc về quốc gia nào sẽ làm gia tăng rủi ro leo thang xung đột, như chúng
ta từng chứng kiến trước đây. Năm 2002, Trung Quốc và các thành viên của Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã ký Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển
Đông, cam kết “không có các hoạt động có thể làm phức tạp hoặc leo thang tranh
chấp, ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định, bao gồm cả việc không tiến hành chiếm
cứ các đảo, rạn san hô, bãi cạn, cù lao và các thực thể địa lý khác hiện chưa
có người ở, cũng như giải quyết các bất đồng một cách có tính xây dựng.” Mặc dù
các quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc, vẫn tiếp tục cải tạo và quân sự hóa các
thực thể mà họ đã chiếm đóng trước đó, nhưng họ cũng đã ngừng việc chiếm đóng
các nơi mới. Trung Quốc chưa đưa người lên chiếm cứ Sandy Cay, nhưng nước này
thách thức các giới hạn của tuyên bố năm 2002.
Các
vùng lãnh hải hình thành từ chủ quyền của Sandy Cay và đảo Thị Tứ, nơi
Philippines đã chiếm đóng và quản lý từ năm 1971, gần như chồng lấn hoàn toàn với
nhau vì hai thực thể này chỉ cách nhau khoảng hai hải lý. Bằng việc khẳng định
chủ quyền đối với Sandy Cay, Trung Quốc sẽ có quyền tương đương với Philipines ở
vùng biển xung quanh một tiền đồn quan trọng của Philippines, thu hẹp không
gian hoạt động của Philippines và làm phức tạp hơn hoạt động tuần tra và tiếp tế
ở khu vực này. Không những thế, việc này còn đặt nền tảng pháp lý cho những
thách thức trong tương lai.
Giống
như nhiều hoạt động vùng xám của Trung Quốc trên Biển Đông, việc nước này kéo cờ
tại Sandy Cay là một động thái khôn khéo và có tính toán. Hành động này là nhằm
đẩy mạnh các tuyên bố chủ quyền nhưng vẫn giữ ở dưới ngưỡng xung đột vũ trang.
Mặc dù có ý nghĩa lớn, hành động này ít mang tính quân sự công khai hơn so với
những động thái khác mà nước này đã thực hiện ở Biển Đông, bao gồm việc dùng
vòi rồng tấn công tàu thuyền của Philippines vào cuối tháng Năm. Lực lượng hải
cảnh và dân quân biển Trung Quốc đã tập trung đông đảo quanh Sandy Cay và hạn
chế tiếp cận của Philippines đối với vùng phụ cận đảo Thị Tứ. Ở những khu vực
khác, đặc biệt là Bãi Cò Mây, Trung Quốc đã sử dụng laser, bắn vòi rồng và đâm
tàu. Trung Quốc dùng các thực thể nhỏ như Sandy Cay, không lớn hơn một sân bóng
đá, và các hành động vô cùng nhỏ để mở rộng sự hiện diện và kiểm soát, củng cố
các tuyên bố chủ quyền, và ướm thử các giới hạn mà các bên, nhất là Hoa Kỳ, có
thể chấp nhận bỏ qua.
Một
trong những mục tiêu chính của Trung Quốc là làm suy giảm uy tín của Hoa Kỳ.
Sandy Cay không được công nhận là lãnh thổ của Philippines và do đó không nằm
trong phạm vi bảo vệ của Hiệp ước Phòng thủ Chung Mỹ-Philippines. Tuy nhiên, sự
phân định pháp lý này có thể không ảnh hưởng nhiều đến cách mà khu vực này nhìn
nhận phản ứng (hay sự im lặng) của Washington. Chính quyền Trump đã khiến nhiều
đồng minh và đối tác lo ngại trước cách họ đối xử với Châu Âu, thái độ do dự
trong các cam kết an ninh, và chính sách thuế quan thiếu chọn lọc. Các đồng
minh và đối tác đều rất nhạy cảm với cách Washington phản ứng trước mọi thách
thức, bao gồm cả diễn biến này, cho dù nhiều bên trong khu vực cũng không có
cùng quan điểm với sự quyết liệt của Philippines trong việc phản đối các yêu
sách trái phép của Trung Quốc. Bắc Kinh đã tính toán thời điểm khẳng định chủ
quyền đối với Sandy Cay một cách khéo léo.
Sự
quyết đoán có tính toán của Bắc Kinh ở Biển Đông có thể phản tác dụng. Trung Quốc
đã có thể được lợi nếu kiềm chế hơn – vị thế của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á đang suy
yếu, đặc biệt sau các mức thuế mà chính quyền Trump đã áp lên họ, và chiến lược
ngoại giao cấp cao của Trung Quốc trong khu vực diễn ra ngay sau đó. Trong chuyến
thăm Đông Nam Á vào giữa tháng Tư của Chủ tịch Tập Cận Bình, 113 thỏa thuận đã
được ký kết. Mặc dù chỉ một số ít có thể được thực hiện, chúng cũng đã giúp khắc
họa một Trung Quốc có tính xây dựng, trong khi Hoa Kỳ lại bị xem là vắng mặt hoặc
thậm chí là khắc nghiệt. Trung Quốc đã có thể lặng lẽ tích lũy thiện chí. Nhưng
hành động khẳng định chủ quyền trực tiếp đối với một lãnh thổ không người và
các hoạt động mở rộng khác sẽ nhắc nhở khu vực rằng không thể tin cậy vào Trung
Quốc, ngay cả trong bối cảnh họ ngày càng khó chịu với Washington đi chăng nữa.
Nhưng
Trung Quốc chắc chắn làm những việc kiểu này vì họ có thể. Năm 2024, lần đầu
tiên trong cuộc khảo sát thường niên do ISEAS-Yusof Ishak Insititute có trụ sở
tại Singapore tiến hành, đa số giới quan chức chính phủ và tinh hoa trong giới
phi chính phủ ở Đông Nam Á cho biết họ sẽ chọn đứng về phía Trung Quốc thay vì
Hoa Kỳ nếu buộc phải lựa chọn, mặc dù mức độ tin tưởng rằng Trung Quốc sẽ “hành
động đúng đắn” vẫn thấp và vẫn còn những quan ngại về Biển Đông.
Trong
cuộc khảo sát năm 2025, Hoa Kỳ đã giành lại lợi thế. Cuộc thăm dò, mặc dù được
công bố vào đầu tháng Tư, nhưng đã được thực hiện trước thời điểm công bố các mức
thuế mới (“Liberation Day” tariffs). Sự trở lại của Trump và lo ngại gia tăng
trước các hành động quyết đoán ngày một tăng của Trung Quốc ở Biển Đông là những
yếu tố quan trọng tác động đến kết quả khảo sát này. Tuy nhiên, Trung Quốc có
thể tăng hoặc giảm các hoạt động của mình ở vùng này và người ta thường không
đánh giá đủ mức độ nghiêm trọng của các hoạt động đó do ảnh hưởng kinh tế của
Trung Quốc cũng như các hoạt động ngoại giao được nước này duy trì. Ngay cả
trong năm 2025, các phản hồi từ ba trong năm quốc gia Đông Nam Á có tranh chấp
lãnh thổ hoặc hàng hải với Trung Quốc, là Brunei, Malaysia và Indonesia, vẫn
nghiêng mạnh về phía Bắc Kinh. Trong hai nước còn lại – Philippines và Việt Nam
– nếu như chỉ khảo sát ý kiến của các quan chức chính phủ, Việt Nam gần như chắc
chắn sẽ nghiêng về Trung Quốc nếu phải chọn bên. Bất chấp những khó khăn kinh tế,
Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của khu vực và là một nhà đầu tư
quan trọng, với mối quan hệ chặt chẽ giữa hai Đảng với Việt Nam. Tuần trước,
Trung Quốc đã tham gia cùng ASEAN và các nước GCC (Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh)
trong hội nghị thượng đỉnh ASEAN-GCC-Trung Quốc lần đầu tiên nhằm thúc đẩy hơn
nữa hợp tác kinh tế và chiến lược ba bên. Cho đến nay, ASEAN vẫn chưa đưa ra một
tuyên bố mạnh mẽ lên án các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trong
khi chính quyền Trump thiên về các màn phô diễn và đối đầu trực diện, Trung Quốc
lại theo đuổi cách tiếp cận âm thầm hơn và leo thang dần dần. Đa phần thì chiến
lược xắt lát của Trung Quốc ở Biển Đông thu hút rất ít phản ứng từ chính quyền
Trump. Đại sứ Hoa Kỳ tại Philippines đã đăng trên X rằng “các hành động hung
hăng” của lực lượng tuần duyên Trung Quốc “trước một hoạt động dân sự hợp pháp
gần Bãi đá Hoài Ân là một động thái liều lĩnh, gây nguy hiểm cho tính mạng con
người và đe dọa sự ổn định trong khu vực,” và rằng Hoa Kỳ “đứng về phía các đồng
minh Philippines trong việc bảo vệ luật pháp quốc tế và một Ấn Độ Dương – Thái
Bình Dương tự do và rộng mở.” Vào tháng Tư, một người phát ngôn của Hội đồng An
ninh Quốc gia Hoa Kỳ tuyên bố “các báo cáo về việc Trung Quốc chiếm Sandy Cay
là rất đáng lo ngại, nếu đúng sự thật.” Trong khi đó, Trung Quốc vẫn kiên định
củng cố vị thế của mình, hoạt động trong các vùng xám cả về khía cạnh pháp lý lẫn
chiến lược, còn chính quyền Trump vẫn không đưa ra được các mục tiêu rõ ràng tại
khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cũng như kế hoạch để đạt được các mục
tiêu đó cùng với các đồng minh và đối tác. Thậm chí các mức thuế theo kế hoạch
đề xuất đã làm tổn thương cả bạn bè lẫn đối thủ, và chính quyền Trump cũng khiến
người ta phải hoài nghi về những cam kết an ninh lâu dài.
Trung
Quốc không cần những chiến thắng lớn; họ chỉ cần tiếp tục tích lũy lợi thế.
Sandy Cay chỉ là một nước đi tiếp trong một ván cờ dài đang dần dần định hình lại
trật tự chiến lược trong khu vực. Washington không nên phớt lờ những thách thức
nhỏ bé này. Hoa Kỳ có thể và nên gửi tín hiệu rằng việc chiếm đóng Sandy Cay và
các thực thể không người khác là hành động gây bất ổn và sẽ có hậu quả đối với
quan hệ Mỹ-Trung. Chính quyền của cựu Tổng thống Barack Obama từng đưa ra cảnh
báo tương tự liên quan đến bãi cạn Scarborough, và Trung Quốc đã kiềm chế không
tiến hành chiếm đóng khu vực này. Hiện nay, khó khăn tất nhiên là nằm ở quan hệ
Hoa Kỳ-Trung Quốc đang rạn nứt đến mức Washington có thể gặp trở ngại trong việc
áp đặt các biện pháp trừng phạt có ý nghĩa, chiến lược áp đảo nhanh của họ đối
với Trung Quốc đang ảnh hưởng đến khả năng của Hoa Kỳ trong việc định hình hành
vi của Bắc Kinh.
Uy
tín của Hoa Kỳ trong khu vực có thể bị xói mòn do những quyết định có tính trọng
yếu như áp đặt thuế quan bừa bãi, nhưng cũng do cả những hành động dường như rất
nhỏ kiểu lờ đi sự việc ở Sandy Cay. Uy tín không chỉ suy yếu ở trung tâm, mà
còn ở các vùng ngoại vi – và điều này cuối cùng dẫn đến việc mất đi ảnh hưởng
và quyền lực.
-----------------------
Lynn
Kuok hiện
giữ chức Chủ tịch danh hiệu Lý Quang Diệu của Chương trình Nghiên cứu Đông
Nam Á tại Viện Brookings. Bà đồng thời là Nghiên cứu viên Cao cấp tại
Đại học Cambridge. Hạo Nhiên là một độc giả cộng tác với Dự án Đại Sự Ký Biển
Đông. Thạc sĩ Hương Nguyễn là cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.
Bản
gốc bài viết: https://foreignpolicy.com/2025/06/01/south-china-sea-sandy-cay-philippines/. Một bản PDF được
lưu ở đây.
No comments:
Post a Comment