Cuộc
chiến Ukraine và cuộc thi về sức chịu đựng quy mô toàn cầu
Cù
Tuấn dịch từ New York Times
Tháng Bảy
11, 2022
Bản
đồ chiến sự Ukraine
Quy
mô dài hạn của cuộc xung đột dường như ngày càng được định hình bằng việc liệu
Mỹ và các đồng minh có thể duy trì các cam kết quân sự, chính trị và tài chính
của họ để cầm chân Nga hay không.
WASHINGTON
– Một ngày trôi qua, một chuyến hàng vũ khí lại được chuyển tới: Hôm 8/7, Lầu
Năm Góc đã thông báo về việc chuyển giao các loại đạn pháo dẫn đường chính xác
và nhiều hệ thống tên lửa mới cho Ukraine, và lô vũ khí mới nhất đang hướng về
phía đông. Nhưng sẽ có một ngày hệ thống đó bắt đầu đi chậm lại?
Hơn 4
tháng sau khi Nga xâm lược Ukraine, một cuộc chiến được cho là chớp nhoáng của
Nga sau đó trở thành một chiếc gân gà cho Moscow và nay đã phát triển thành một
trận chiến không có hồi kết, một cuộc đấu khả năng chịu đựng địa chính trị
trong đó Tổng thống Vladimir V. Putin đang đánh cược rằng Nga có thể chịu đựng
lâu hơn một phương Tây hay thay đổi và thiếu kiên nhẫn.
Tổng thống
Biden đã thề sẽ sát cánh với Ukraine “bao lâu cũng được”, nhưng cả ông và bất kỳ
ai khác đều không thể nói cuộc chiến sẽ kéo dài bao lâu hoặc Mỹ và các đồng
minh có thể làm được bao nhiêu nữa từ xa, mà không cần đến quân đội can thiệp
trực tiếp. Tại một số thời điểm, các quan chức Mỹ đã thừa nhận, dự trữ vũ khí của
Mỹ và châu Âu sẽ xuống thấp; dù Mỹ đã duyệt chi 54 tỷ đô la quân sự và các hỗ
trợ khác, không ai sẵn sàng duyệt tiếp khoản chi 54 tỷ đô la khác khi khoản chi
trước đã hết.
Vì vậy,
ông Biden và nhóm của ông đang tìm kiếm một chiến lược dài hạn vào thời điểm mà
Nhà Trắng nhận thấy nguy cơ leo thang ngày càng gia tăng, triển vọng cho một thỏa
thuận thương lượng vẫn còn xa vời và sự mệt mỏi của công chúng bắt đầu xảy ra
trong và ngoài nước Mỹ.
“Tôi lo lắng
về yếu tố mệt mỏi của công chúng ở nhiều quốc gia vì chi phí kinh tế và vì có
những lo ngại cấp bách khác”, Thượng nghị sĩ Chris Coons, đảng viên Dân chủ
bang Delaware và một đồng minh thân cận của ông Biden, người đã tham dự cuộc họp
thượng đỉnh NATO ở Madrid vào tuần trước, cho ý kiến.
Ông Coons,
thành viên Ủy ban Đối ngoại Thượng viện cho biết: “Tôi nghĩ chúng ta cần quyết
tâm và tiếp tục hỗ trợ Ukraine. Chính xác thì điều này sẽ diễn ra trong bao
lâu, thời gian chính xác sẽ như thế nào, chúng tôi không biết ngay bây giờ.
Nhưng chúng tôi biết nếu chúng tôi không tiếp tục hỗ trợ Ukraine, kết quả đối với
Mỹ sẽ còn tồi tệ hơn nhiều”.
Trong khi
các cuộc giao tranh gần đây chủ yếu tập trung vào một vùng đất hình lưỡi liềm ở
miền đông và miền nam Ukraine, Nhà Trắng lo ngại cuộc chiến có thể dễ dàng vượt
khỏi tầm kiểm soát. Một cuộc tấn công tên lửa gần đây vào một trung tâm mua sắm
ở miền trung Ukraine cho thấy rằng Moscow đang thiếu vũ khí chính xác và ngày
càng chuyển sang sử dụng các loại vũ khí kém tinh vi hơn có thể tấn công các mục
tiêu ngoài ý muốn – thậm chí có thể là xuyên biên giới, tấn công vào các đồng
minh NATO như Ba Lan hoặc Romania. Và các quan chức Mỹ lo ngại rằng ông Putin
có thể sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật để thoát ra khỏi giới hạn mà ông phải
đối mặt trên chiến trường.
Trên thực
tế, chính quyền Biden đã kết luận rằng nhà lãnh đạo Nga vẫn muốn mở rộng cuộc
chiến và cố gắng chiếm lại Kyiv, thủ đô của Ukraine. Avril D. Haines, giám đốc
tình báo quốc gia, cho biết tại một hội nghị tuần trước: “Chúng tôi nghĩ rằng
ông ấy có cùng mục tiêu chính trị mà chúng tôi đã dự đoán trước đây, có nghĩa
là ông ấy muốn chiếm phần lớn lãnh thổ Ukraine”.
Ông Putin
dường như đã xác nhận điều đó vào ngày 7/7, khi ông cảnh báo rằng ông có nhiều
lựa chọn mở rộng hơn. “Mọi người nên biết rằng, nói chung thì chúng tôi thậm
chí vẫn chưa bắt đầu bất cứ điều gì một cách nghiêm túc,” ông nói với các nhà
lãnh đạo quốc hội ở Moscow.
Ông Putin
nói thêm: “Chúng tôi nghe nói rằng họ muốn đánh bại chúng tôi trên chiến trường.
Hãy cứ để họ thử.”
Các quan
chức Mỹ, xin giấu tên để thảo luận về các cân nhắc chiến lược, đang thúc giục
Ukraine củng cố lực lượng của họ ở tiền tuyến. Nhưng các nhà lãnh đạo Ukraine
muốn tiến xa hơn và có đủ nhân sự để tiến hành một cuộc phản công nhằm chiếm lại
lãnh thổ, một mục tiêu mà các quan chức Mỹ ủng hộ về mặt lý thuyết ngay cả khi
họ còn nghi ngờ về khả năng đánh bật quân Nga của Ukraine. Tuần trước, Tổng thống
Volodymyr Zelensky của Ukraine nói với Nhóm G7 rằng ông muốn chiến tranh kết
thúc vào cuối năm nay. Nhưng có những nghi ngờ nghiêm trọng ở Washington về việc
liệu điều đó có khả thi về mặt quân sự hay không.
Chính quyền
Biden không muốn bị coi là gây áp lực buộc ông Zelensky phải đàm phán một thỏa
thuận với Điện Kremlin vì có nguy cơ gây ra hành động xâm lược vũ trang, nhưng
các quan chức và nhà phân tích cho rằng sẽ khó duy trì mức hỗ trợ vật chất như
trước khi tình trạng chiến tranh ngày càng gây mệt mỏi ở cả hai bên bờ Đại Tây
Dương. Theo một số ước tính, viện trợ quân sự được Quốc hội Mỹ thông qua dự kiến
sẽ kéo dài vào quý II năm sau, nhưng
câu hỏi đặt ra là nguồn cung cấp vũ khí và đạn dược hiện tại có thể tồn tại
trong bao lâu mà không làm suy giảm khả năng sẵn sàng về mặt quân sự của Mỹ.
Các quan
chức Mỹ đã khuyến khích các nước khác cung cấp các kho vũ khí còn sót lại do
Liên Xô sản xuất mà người Ukraine đã quen sử dụng – một mục trong chương trình
nghị sự của ông Biden cho chuyến công du Trung Đông vào tuần tới, khi ông dự kiến
gặp lãnh đạo các quốc gia Ả Rập vốn từng
là khách hàng của Moscow.
Ivo H.
Daalder, chủ tịch Hội đồng các vấn đề toàn cầu Chicago và là cựu đại sứ Mỹ tại
NATO, cho biết: “Có rất nhiều dư địa, nhưng rõ ràng sáu tháng tới thực sự sẽ rất
quan trọng. “Trong sáu tháng tới, chúng tôi sẽ thấy một hoặc cả hai bên đã quá
kiệt sức và họ sẽ tìm kiếm một lối thoát.”
Chính quyền
Biden cũng đang tập trung vào việc giành chiến thắng trước các quốc gia chưa chọn
phe, gồm có: Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia khác chưa tham gia chiến
dịch cô lập Moscow của Mỹ và châu Âu. Một nỗ lực ngoại giao sẽ tìm cách cho họ
thấy rằng Ukraine và Mỹ sẽ sẵn sàng cho một thỏa thuận thương lượng miễn là
không có nhượng bộ lãnh thổ, và đưa ra quan điểm rằng Nga là nước từ chối chấm
dứt chiến tranh.
Trong vài
tháng tới, chính quyền Mỹ lập luận rằng họ đã đáp ứng hoặc sẽ đạt được một số mục
tiêu chiến lược mà họ đặt ra vào mùa xuân. Đầu tiên là phải đảm bảo rằng một
“Ukraine sôi động, độc lập, dân chủ” xuất hiện và có thể tồn tại lâu dài. Các
quan chức tin rằng đất nước này sẽ tồn tại – nhưng họ cũng tin rằng trừ khi
Ukraine tìm ra cách xuất khẩu ngũ cốc và các sản phẩm nông nghiệp khác, tương
lai kinh tế của nước này có thể gặp nguy hiểm.
Mục tiêu
thứ hai là đảm bảo rằng cuộc xâm lược là một “thất bại chiến lược” đối với Nga.
Các quan chức Mỹ tin rằng Nga hiện đang bị cô lập và chịu các lệnh trừng phạt
kinh tế nặng nề, nên rất dễ dàng để đạt được mục tiêu đó. Nhưng điều đáng lo ngại
là ông Putin sẽ có thời gian để tập hợp quân, phát động các cuộc tấn công mới
và tìm cách chiếm giữ một phần khác của Ukraine.
Mục tiêu
thứ ba là giữ cho cuộc chiến không leo thang thành một cuộc xung đột trực tiếp
giữa các siêu cường. Về điểm đó, các quan chức Mỹ cho biết họ đã thành công –
và tất cả các bằng chứng cho thấy ông Putin, ít nhất là cho đến nay, đã cẩn thận
để tránh giao tranh quân sự với các đồng minh NATO.
Mục tiêu
thứ tư là khó nhất: củng cố trật tự quốc tế xung quanh các giá trị phương Tây.
Các quan chức cho rằng NATO đang được củng cố, vì khối này vẫn thống nhất quan
điểm và vì khối này giờ đây chắc chắn sẽ được mở rộng để bao gồm Phần Lan và Thụy
Điển. Nhưng cho đến nay, ông Biden vẫn chưa nói nhiều về trật tự mới xoay quanh
nước Mỹ sẽ trông như thế nào.
Một số
quan chức, bao gồm cả ông Biden, đã nhăn mặt khi Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd J.
Austin III nói vào tháng 4 rằng “chúng tôi muốn thấy Nga suy yếu đến mức không
thể làm những điều mà họ đã làm khi xâm lược Ukraine.”
Tổng thống
đã gọi cho ông Austin để đánh giá lại bình luận trên, sau đó chỉ đạo nhân viên
của ông tiết lộ sự thật rằng ông đã làm như vậy. Nhưng các quan chức Mỹ thừa nhận
đó thực sự là chiến lược dài hạn của Mỹ, ngay cả khi ông Biden không muốn công
khai kích động ông Putin leo thang chiến tranh.
Dù đã cùng
nhau tổ chức liên minh, dàn dựng các biện pháp trừng phạt chống lại Moscow và hỗ
trợ rộng rãi cho Ukraine, ông Biden vẫn chịu áp lực phải mạnh tay hơn.
Evelyn N.
Farkas, giám đốc điều hành của Viện McCain về Lãnh đạo Quốc tế và là cựu quan
chức của chính quyền Obama, cho biết: “Mọi thứ mà chính quyền đã làm trong việc
hỗ trợ đều thật tuyệt vời. “Tất cả những gì tôi có thể nói là chúng ta cần hỗ
trợ nhiều hơn nữa và nhanh hơn nữa.”
Bà nói rằng
ông Biden không nên hạn chế tham vọng của mình trong việc giữ quân Nga ở lại
phía đông. “Chúng tôi cần giúp người Ukraine thực sự phát động một cuộc tấn
công,” bà nói, “không chỉ giữ vững một số vị trí và giữ họ tránh xa Kyiv.”
Trong
chính quyền Mỹ, vẫn còn căng thẳng đáng kể xoay quanh việc liệu ông Biden có
đang quá thận trọng với các loại vũ khí mà ông gửi tới Ukraine hay không và tốc
độ ra sao. Quyết định cung cấp bệ phóng tên lửa HIMARS đã được tranh luận nhiều
vì lo ngại rằng nó sẽ dẫn đến leo thang chiến tranh.
Mối quan
tâm đó càng tăng cao khi vài ngày trước, Ukraine tuyên bố rằng họ đã sử dụng hệ
thống này để tấn công một kho vũ khí trên lãnh thổ Nga; Không rõ liệu điều đó
có xảy ra thật hay không, liệu nó có vi phạm các cam kết với Washington về việc
chỉ sử dụng hệ thống trong biên giới Ukraine hay không.
Các đánh
giá của tình báo Mỹ cho thấy người Nga sẽ mất vài năm để xây dựng lại các thiết
bị đã bị phá hủy trong chiến tranh, và việc kiểm soát xuất khẩu đối với chip và
các công nghệ khác sẽ chậm lại, nếu không muốn nói là ngưng hẳn.
Ông Coons
cho rằng lãnh đạo phương Tây cần phải kiên nhẫn như ông Putin.
Ông nói:
“Miễn là chúng tôi (Mỹ) đi đúng hướng, các đồng minh châu Âu của chúng tôi sẽ
đi đúng hướng. Nhưng đây là một chặng đường dài và nó chưa kết thúc.”
No comments:
Post a Comment