Nobel
Vật Lý 2021: Biến Đổi Khí Hậu
Đăng trong Tháng Mười 15, 2021 bởi Blog của 5xu
https://5xublog.wordpress.com/2021/10/15/nobel-vat-ly-2021-bien-doi-khi-hau/
Giải Nobel Vật Lý năm nay khá bất ngờ. Với các nhà
khoa học, họ bất ngờ nhưng là sự bất ngờ thích thú. Với công chúng, họ bất ngờ
và khó hiểu. Bài viết dưới đây là
viết cho TTCT số tuần này, bản đăng báo có thể ngắn hơn một chút.
VIDEO :
The art of flying - short 2 min version
Göran Hansson, tổng thư ký của Viện hàn lâm
Hoàng gia Thụy Điển phát nói: “Nhiều người trong số các bạn vẫn nghĩ rằng vật
lý chỉ là những hiện tượng đơn giản và có trật tự (order). Vật lý rộng hơn thế
rất nhiều. Vật lý sử dụng các lý thuyết cơ bản để giải thích những hiện
tượng phức hợp khổng lồ (vast complexity) của thế giới tự nhiên.
Công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý năm nay đòi hỏi
phải có trực giác sâu sắc về những cấu trúc và tiến trình thiết yếu… Những nhà
khoa học đoạt giải năm nay thực sự là những bậc thầy.”
Giải Nobel Vật Lý 2021
Trong suốt lịch sử 120 năm của mình, các giải
Nobel dành cho khoa học dần trở nên thủ cựu khi chỉ khuôn vào ba ngành khoa học
lâu đời là Y học, Hóa học và Vật lý; trong khi đó khoa học của loài người đã
phát triển mạnh mẽ và đa dạng trong suốt thế kỷ 20 rồi vắt qua hai mươi năm đầu
thế kỷ 21. Cách trao giải Nobel Vật lý cho các công trình và các nhà khoa học
“rất vật lý” như Ủy ban Nobel vẫn trao suốt cả trăm năm qua có lẽ không còn phù
hợp với thời đại mới. Các giải Nobel trao cho Einstein, Heisenberg, Dirac,
Schrödinger, Pauli… cách nay hơn nửa thế kỷ vẫn tiếp tục là những lần trao giải
vĩ đại, giải Nobel trao cho Penrose mới năm ngoái cũng rất vật lý và thời thượng,
nhưng việc mở rộng giải vật lý, dung hợp thêm những ngành khoa học khác, vẫn là
việc nên làm và đáng được hoan nghênh.
Vài năm gần đây, giải Nobel Vật lý bắt đầu
“dung hợp” hơn, giải được trao cho những nhà khoa học ở những ngành vật lý mới
mẻ, hoặc “cận vật lý”. Năm 2018 giải được trao cho các nhà khoa học làm về vật
lý laser, một lĩnh vực giống công nghệ nhiều hơn là khoa học cơ bản. Cũng xin mở
ngoặc là năm nay các nhà khoa học làm ra vaccine mRNA không được trao giải Y
sinh, các ý kiến “ngoài luồng” cho rằng nghiên cứu về vaccine mRNA nặng về công
nghệ mà ít hàm lượng khoa học cơ bản. Năm 2019 giải được trao cho ngành khoa học
trái đất và năm 2020 (Penrose) danh chính ngôn thuận là trao cho vật lý thiên
văn, một ngành rất non trẻ (tuy chữ thiên văn làm chúng ta nhầm tưởng đó là
ngành lâu đời).
Năm nay, giải Nobel vật lý trao cho các nhà
khoa học có đóng góp về khoa học khí hậu. Mặc dù một nửa giải về tay nhà
vật lý thực tụ là Giorgio Parisi, nhưng tựu chung tất cả đều bất ngờ khi ngành khoa
học khí hậu mới là ngành đoạt giải thưởng danh giá này. Một trong ba nhà
khoa học được giải, Syukuro Manabe, còn ngạc nhiên khi mình được giải. Ông nói:
“Chẳng ai đi trao giải thưởng vật lý cho lĩnh vực nghiên cứu của tôi, [mà giải
Nobel thì lại trao] và tôi thực sự đánh giá cao Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển
[đã chọn] lĩnh vực này, một lĩnh vực chứa đựng các chủ đề về khí hậu và biến đổi
khí hậu.”
Quả thật, nhìn vào “ngành nghề” hoặc công
trình của các nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý năm nay, ta hẳn phải có chút
ngạc nhiên.
Ba nhà khoa học nhận
giải Nobel Vật Lý 2021
Một nửa giải Nobel Vật lý 2021 được trao cho
hai nhà khoa học khá xa lạ với những gì ta vẫn quen gọi là vật lý. Một
người là nhà khí hậu học (người Mỹ gốc Nhật) và một người là nhà hải
dương học (người Đức). Họ được trao giải vì đã có công xây dựng mô hình vật
lý của khí hậu trái đất, định lượng các biến động và dự đoán được sự ấm lên
toàn cầu.
Nhà khí hậu học tên
là Syukuro Manabe. Từ những năm 1960, Manabe đã tiên phong dùng mô phỏng máy
tính vào nghiên cứu khí hậu, qua đó đưa ra dự đoán đáng tin cậy về việc nhiệt độ
trung bình của hành tinh tăng lên để đáp ứng lại sự tăng lượng CO2 bị
phát thải vào khí quyền. Mô phỏng khí hậu trái đất của Manabe tiếp tục phát triển
suốt ba chục năm tiếp theo, ngày càng phức tạp hơn, có thêm vào các biến số phức
tạp của lưu chuyển các dòng không khí và hải lưu, từ đó đặt nền tảng cho mô
hình dự báo được sự nóng lên toàn cầu.
Nhà hải dương học tên
là Klaus Hasselmann. Từ những năm 1970, Hasselmann phát hiện ra và xác định được
các mối liên hệ mang tính hệ thống và thống kê giữa các hiện tượng thời tiết
hỗn loạn (chaotic) xảy ra mỗi ngày với sự biến động diễn ra chậm chạp hơn của khí
hậu hành tinh, từ đó có đóng góp vào các mô phỏng khí hậu mà trong đó các
biến động ngắn hạn như thời tiết hay hoạt động của con người (ô nhiễm)
có ảnh hưởng đến biến đổi dài hạn của khí hậu.
Nửa giải Nobel Vật lý còn lại về tay một nhà
vật lý lý thuyết thực sự, đó là Parisi. Ông là người Ý thứ sáu được giải
Nobel Vật lý. Ông được trao giải vì, như Ủy ban Nobel công bố, “đã khám phá ra
tác động qua lại của sự mất trật tự (disorder) và biến động thăng giáng
(fluctuation) trong các hệ thống vật lý có quy mô từ cỡ nguyên tử đến cỡ hành
tinh.”Công trình mà Parisi được trao giải thuộc về lĩnh vực khoa học cơ bản,
“spin glass”, đã được công nhận từ những năm 1970 và 1980.
Spin glass là đề tài công trình nghiên cứu của
Parisi. Đây là một loại hợp kim đặc biệt, ví dụ một chút nguyên tử sắt được hòa
tan ngẫu nhiên vào mạng lưới các nguyên tử đồng. Dù chỉ số lượng nguyên tử sắt
rất ít, chúng vẫn làm biến đổi rất mạnh từ tính của hợp kim. Đây là hiện tượng rất khó hiểu. Theo Parisi, hợp kim bỗng
thể hiện các đặc tính từ tính kỳ lạ do sự mất trật tự trong cấu trúc nguyên tử
của chúng. Khi nghiên cứu các mô thức (pattern) bí ẩn xuất hiện trong spin
glass, Parisi thu nhận được các hiểu biết khoa học mang tính đột phá về mất
trật tự (disorder) và hỗn loạn (chaos) trong các hệ vật lý ở mọi quy mô, từ cỡ
nguyên tử đến cỡ các hành tinh. Các cấu trúc phức hợp (complex structure) trong
spin grass mà Parisi mô tả sau này được áp dụng để tìm hiểu các hệ thống
mất trật tự tự nhiên, chẳng hạn như não người, hệ thần kinh, hệ sinh học, học
máy; hoặc các hiện tượng có sẵn trong thiên nhiên như chuyển động của các đàn
chim và khoa học khí hậu.
https://5xublog.files.wordpress.com/2021/10/flock-of-birds-1.jpg?w=535
Tại sao spin
glass lại quan trọng?
Đó là do ta có thể sử dụng nó như một cẩm nang
hướng dẫn du lịch đi qua sự hỗn loạn (chaos) để đến với tính phức hợp
(complexity).
Trong Vật lý nói riêng và các ngành khoa học
cơ bản nói chung, thường thì đối tượng nghiên cứu luôn là một thứ gì đó đồng nhất
(homogenous), có thể giản lược bớt, quy giản nó về cốt lõi. Những “thứ gì đó”
thường là một hệ (system) chứa đựng những thứ hợp lý, cân đối, bình dị, chuẩn
chỉ. Các hệ này luôn có tính đối xứng (symmetry) về không gian và thời gian. Ví
dụ như hệ mặt trời, có thể quy giản nó về một hệ mà mặt trời, trái đất và các
hành tinh là các hạt điểm. Hoặc các “hệ” vật chất, như tinh thể, nam châm, chất
siêu dẫn,… đều có cấu trúc trật tự và đối xứng, dễ dàng giản ước để phân tích
và nghiên cứu.
Trong một số loại chất rắn, ví dụ như sắt từ,
mỗi nguyên tử sẽ có một spin từ tính (magnetic spin). Spin là tên gọi của các
vector từ tí hon của mỗi nguyên tử, nó được biểu diễn bằng một mũi tên bé tí hướng
từ cực Nam đến cực Bắc của các viên nam châm tí hon này. Ở nhiệt độ cao, các
nguyên tử hỗn loạn, mất trật tự, nhưng khi nguội dần, các nguyên tử ổn định dần,
và các spin xắp xếp rất ngay hàng thẳng lối, các mũi tên hướng về cùng một hướng,
một hệ rất trật tự.
Thế nhưng cấu trúc của thủy tinh, một loại chất
rắn vô định hình, lại không trật tự như vậy. Nó rất mất trật tự. Ngay cả khi hạ
nhiệt độ xuống thấp, thủy tinh định hình rồi, mà các phân tử vẫn rất lung tung,
không theo một mô thức (pattern) thông thường nào cả. Với “hệ” thủy tinh, những
tính chấn cân đối, chuẩn chỉ, bình dị,… một cách có trật tự bỗng dưng biến mất.
Ta không thể đơn giản hóa hệ thống để dễ dàng phân tích và nghiên cứu được nữa.
Khi nghiên cứu tính mất trật tự, ví dụ như
tính mất trật tự của từ tính trong hợp kim, người ta dùng phép so sánh tương tự,
họ ghép hình ảnh spin từ trường với cấu trúc mất trật tự thủy tinh, từ đó có
cái tên spin glass.
Điểm khác biệt mấu chốt ở đây là: trong khi
tính mất trật tự của hợp kim do nhiệt đã được nghiên cứu và có được những hiểu
biết khá là trọn vẹn; thì tính mất trật tự do giảm nhiệt độ (luyện nguội), các
spin (phân tử) bị mắc kẹt ở tư thế hỗn loạn trong vật chất ngưng tụ (condensed
matter) lại là cái mà con người chưa có mấy hiểu biết.
Câu hỏi sao chất rắn nó lại rắn, là câu hỏi
không dễ trả lời, xét về mặt vật lý nói chung và khoa học vật liệu nói riêng.
Câu hỏi này, về mặt triết học đã được xới lên từ lâu, có thể kể đến người biện
luận nổi tiếng của phái phi vật chất luận là giám mục Berkely chống lại việc vật
chất (chất rắn) có thể động chạm vào được, tác động qua lại được, nhưng không
có thật, mà chỉ là các ý niệm. Đến thế kỷ 19, các nhà vật lý như Ludwig
Boltzmann, Josiah Gibbs bắt đầu đặt nền móng cho cơ học thống kê và hệ nhiệ
động học, đây là trụ cột của vật lý hiện đại và sau đó có ảnh hưởng đến nhiều
ngành khoa học khác, trong đó có khoa học khí hậu. Sang thế kỷ 20, các nhà vật
lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn về các định luật bảo toàn (năng lượng, động lượng,
điện tích…) nhưng người tìm ra bản chất của bảo toàn lại là một nhà toán học nữ
là Emmy Noether. Bản chất tự nhiên của bảo toàn năng lượng, động lượng
hay điện tích là do tính đối xứng (symmetry) có trong tự nhiên. Và nếu tính đối
xứng bị phá vỡ, nó sẽ sinh ra một cái gì đó đặc biệt. Ví dụ như sự phá vỡ đối xứng
mang đến cho vật chất khối lượng (nếu không, vật chất sẽ không có khối lượng,
massless), đây là công trình mang đến cho Higgs giải Nobel vật lý, và cái hạt
truyền khối lượng ấy gọi là Higg Boson.
Câu hỏi về một hệ rắn (vật chất rắn) tại sao
có khối lượng, tại sao nó trật tự,… đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và đem lại cho
loài người hiểu biết đầy đủ để giải thích đủ các loại hiện tượng, từ việc tại
sao miếng dán nam châm lại dính được lên tủ lạnh, đến tại sao màn hình tinh thể
lỏng lại…phát được hình. Còn hệ mất trật tự vẫn là một thế giới bí ẩn.
Lúc này đây spin glass bắt đầu thể hiện vai trò của mình. Spin glass
có sự tương đồng với các hệ có cấu trúc nội tại phức hợp.
Các đặc trưng của Spin glass tương tự với
đặc trưng của một
hệ phức hợp. Khi nhiệt độ của môt hệ trật tự (ví dụ như sắt từ) giảm
xuống tới nhiệt độ định hình, cấu trúc nội tại của nó ổn định và trật tự dần,
cho tới khi đạt tới trạng thái tối ưu và bền vững duy nhất. Còn một hệ phức hợp
(như spin glass), ở nhiệt độ định hình, nó rơi (các spin bị mắc kẹt) vào
một trong nhiều trạng thái cực tiểu khác nhau. Tức là ở khi xuống đến nhiệt độ
định hình, sự định hình của nó rơi vào một trong nhiều trạng thái tạm bền vững
khác nhau (metastable). Mỗi trạng thái mà nó rơi vào ấy là cả một sự giằng co:
một số cặp spin muốn chỉ theo cùng một hướng và những cặp khác theo hướng ngược
lại – vậy làm thế nào để chúng tìm ra một hướng tối ưu. Đó chính là lý do khi
đã định hình rồi mà spin glass vẫn có cấu trúc mất trật tự. Ví von về sự
giằng co từ cục bộ lan ra toàn thế này, Parisi viết: “… nghiên cứu về spin
glass cũng giống như xem bi kịch con người trong các vở kịch Shakespeare. Bạn
muốn kết bạn với hai người cùng một lúc nhưng hai người ấy lại ghét nhau, điều
đó có thể khiến bạn thấy bất ổn (frustration, một thuật ngữ của vật lý). Điều
này càng đúng hơn nữa nếu đây là một vở bi kịch cổ điển, nơi bạn và thù có tình
cảm mạnh mẽ gặp nhau trên sân khấu. Làm thế nào để có thể tối thiểu hóa sự căng
thẳng trong phòng (tối ưu hóa cấu trúc của toàn hệ)? Parisi phát hiện ra một cấu
trúc ẩn của spin glass và tìm ra cách để mô tả nó bằng toán học. Sau khi phương
pháp của Parisi được chứng minh là đúng, nó đã được áp dụng vào nhiều hệ thống
phức hợp và trở thành nền tảng của lý thuyết về hệ thống phức hợp.
https://5xublog.files.wordpress.com/2021/10/spin-glass.jpg?w=542
Spin glass
Cụ thể hơn, công trình của Parisi giúp các nhà
khoa học tính được số trạng thái có thể ở một tình huống cụ thể. Đây là một
công cụ quan trọng để nghiên cứu một hệ phức hợp ngoài tự nhiên. Các hệ như vậy,
ví dụ một đàn chim đang cuồn cuộn di chuyển, hay hệ khí hậu… sẽ có một tổ hợp
vô số các cấu hình, trạng thái, kết quả khác nhau.
Spin glass giúp ta hiểu được các đặc
trưng trải khắp các hệ phức hợp đa dạng. Đó có thể là một hệ không phụ thuộc
kích cỡ (free-scale, tức là nó đúng với mọi kích cỡ, từ nguyên tử đến các hành
tinh), ví dụ như hệ thần kinh tự nhiên hoặc nhân tạo (neutral network); hoặc là
một hệ thích ứng (adaptive system) vốn là hệ có nhiều vòng lặp phản hồi, ví dụ
như hệ sinh thái, xã hội loài người, các sinh thể (organism), các hệ tạo ra hoặc
sử dụng quá nhiều dữ liệu (bigdata). Tóm lại, đó là các hệ tồn tại dường như rất
ổn định (metastable) trong tự nhiên, nó nằm ở gianh rới giữa rất trật tự và rất
hỗn loạn.
Giải Nobel dành
cho nghiên cứu về khí hậu
Khí hậu là một
hệ thống phức hợp điển hình. Đầu tiên nó là một hệ động, tức là nó
liên tục biến đổi theo thời gian. Tiếp đó nó không phải là một hệ tuyến tính.
Và nó là hệ đa biến số, với các biến lại phụ thuộc lẫn nhau. Một hệ thống phức
hợp như khí hậu có hàng triệu biến số có ảnh hưởng đến nhau và gây ảnh hưởng đến
toàn bộ hệ thống. Tác động phức hợp giữa các biến số gây khó khăn trong việc dự
đoán biến động của toàn bộ hệ thống. Ví dụ, mặt nước đóng băng có màu trắng sẽ
làm giảm độ hấp thụ ánh nắng. Băng tan làm mặt đất giảm độ sáng trắng và thêm độ
tối của mặt nước. Mặt nước tối hấp thụ nắng nhiều hơn, làm băng tan nhiều thêm.
Kiểu tác động giữa các biến này được gọi là vòng lặp phản hồi (feedback loop).
Tác động của nó được gọi là tác động kiểu quả tuyết lăn (tác động ban đầu rất
nhỏ, đơn lẻ, mà kết quả do nó tạo ra rất lớn và toàn cục). Đây cũng là một đặc
trưng của hệ phức hợp.
Công trình về spin grass của Parisi
mang đến cho các nhà khoa học hiểu biết về cách một cá thể có tính cục bộ mỗi
khi xoay chuyển (một spin đổi chiều) lại có thể tạo ra các ảnh hưởng đến toàn bộ
hệ thống.
Đóng góp của Suki Manabe và Klaus Hasselmann
vào nghiên cứu khí hậu trái đất khá rõ nét. Manabe phát minh ra mô hình biến đổi
khí hậu hiện đại trong đó sử dụng máy tính (thời đó còn khá thô sơ) để khảo sát
khí hậu ở quy mô khắp bề mặt trái đất là lên tới tầng bình lưu của khí quyển.
Klaus Hasselmann phát triển các kỹ thuật so sánh để định lượng tác động của các
yếu tố đầu vào lên kết quả đầu ra, trong đó có kỹ thuật “lấy dấu vân tay tối
ưu”. Kỹ thuật này sử dụng một bộ công cụ toán thống kê để lập chiến lược tối ưu
trong việc truy tìm các dấu vết còn sót lại (rất nhỏ) của con người trong vô
vàn các tác nhân có thể gây ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu. Bằng việc sử dụng kỹ
thuật “vân tay tối ưu”, các nhà khoa học khẳng định một cách chắc chắn rằng biến
đổi khí hậu gần đây là do con người.
https://5xublog.files.wordpress.com/2021/10/manabe.jpg?w=1024
Manabe’s climate model
Thế còn đóng góp của Parisi vào nghiên cứu khí
hậu cụ thể là gì. Chính Parisi thuật lại rằng, các nghiên cứu của ông về sự mất
trật tự trong các hệ thống phức hợp đã được sử dụng để mô hình hóa các
chu kỳ băng hà (dài khoảng 100.000 năm) đã tạo ra kỷ băng hà của Trái đất. Ông
cũng nói, chúng ta không còn nhiều thời gian để giải quyết vấn đề trái đất của
chúng ta đang nóng lên nhanh một cách đáng ngại. “Rõ ràng là vì các thế hệ
tương lai, chúng ta phải hành động ngay lập tức, và hành động thật nhanh
chóng.”
Các
nghiên cứu vật lý lý thuyết của Parisi nằm
“rải rác” ở vài lĩnh vực khác nhau. Trong Lý thuyết trường lượng tử,
Parisi có phương trình Altarelli-Parisi, đây là một công cụ toán học được
sử dụng rất nhiều trong vật lý hạt và vật lý năng lượng cao.
Trong Cơ học thống kê, Parisi có mô hình siêu đối xứng Parisi-Sourlas
supersymmetry , được ứng dụng trong nghiên cứu vật liệu có cấu trúc mất trật
tự, để suy luận các thăng giáng lượng tử hoặc biến động thống kê của các spin từ
trong các trường ngẫu nhiên. Bên cạnh đó, ông dùng máy tính để mô phỏng các hệ
phức hợp trong cơ học thống kê và lý thuyết trường lượng tử. Khi nghiên cứu
nhiệt động học của spin glass, ông tìm ra chuỗi các nghiệm, mỗi nghiệm lại phá
vỡ đối xứng (symmetry breaking) của nghiệm trước đó theo một
phương thức có hệ thống. Kết quả cuối cùng là hệ quả của chuỗi các cấp phá vỡ đối
xứng trước đó. Chuỗi nghiệm này của Parisis giúp các nhà khoa học hiểu sâu hơn
về các bài toán tổng quát của các hệ phức hợp (nhưng có thể dùng mô phỏng để
tính toán được) như thời tiết, khí hậu, học máy,…
Một
ví dụ về đối xứng bị phá vỡ. Sau Big Bang, nhiệt độ
rất cao, rồi vũ trụ nguội dần, trường Higgs ngưng tụ (một sự chuyển pha kiểu
như khi nhiệt độ giảm dần thì hơi nước chuyển thành thể lỏng, rồi thể rắn). Trước
khi trường Higgs ngưng tụ, các hạt photon, W, Z không có khối lượng và giống
nhau. Sự đối xứng (symmetry) giữa chúng cũng là symmetry giữa các lực mà chúng
mang. Khi Higgs ngưng tụ, đối xứng bị phá vỡ (broken), hạt photon vẫn không có
khối lượng, hạt W và Z có khối lượng. Các lực mà chúng mang trở nên khác nhau.
Lực điện từ (photon) khác lực hạt nhân yếu (W và Z)trở thành hai lực khác nhau ở
thế giới hiện tại (và nhiệt độ hiện tại); nhưng về cơ bản chúng là cùng một lực
mà thành ra hai chỉ vì có sự chuyển pha của trường Higgs làm vỡ đối xứng. Các
nhà vật lý thống nhất được lực điện từ và lực hạt nhân yếu (như Maxwell đã thống
nhất lực điện và từ trước đó một thế kỷ) đã đoạt giải Nobel Vật Lý năm 1979. Họ
là Glashow, Weinberg
va Salam. Lực hợp nhất của điện từ (electromagnetic force) và lực hạt
nhân yếu (weak nuclear force) trở thành electroweak force.
Về hệ
phức hợp (complex system) và tính phức hợp (complexity). Một ví dụ là sự nhận thức (consciousness) của chúng ta. Nó là sự đột
hiện (đột ngột xuất hiện – emergence) ra bề mặt bên ngoài của một hệ vĩ mô
nhưng lại bắt nguồn từ những cấu trúc vật lý vi mô (hàng chục tỷ tế bào não,
neuron thần kinh, vân vân) ở tầng đáy bên trong. Sự đột hiện (emergence) đấy rất
khó hiểu, nó giống như một phép thần. Làm sao mà một hệ vật lý rất phức tạp ở tầng
cấp vi mô (microscoptic) bao gồm toàn những là neutron, proton, electron,… lại
tạo hiện ra một thứ rất kỳ lạ là sự nhận thức ở cấp độ vĩ mô (macroscoptic), ở
đây là kích cỡ một con người? Để tìm hiểu nó, người ta vận dụng thuyết động học
để tìm hiểu hệ phức hợp động (dynamic complex system). (Ta có thể thay sự nhận
thức/consciousness trong ví dụ trên bằng những thứ khác nhau: khí hậu, nền
kinh tế xã hội của một đô thị lớn, hay một đàn chim đặc kít đang cuồn
cuộn bay.
Như vậy, giải thưởng Nobel Vật lý năm nay có
trao cho nhà vật lý có công trình thực sự là vật lý cơ bản, công trình này có
đóng góp vào ngành khoa học khí hậu; và các nhà khoa học khí hậu, nhờ vào các
mô hình vật lý họ sử dụng để nghiên cứu biến đổi khí hậu của họ cũng được trao
giải Nobel vật lý. Hay nói cách khác, biến đổi khí hậu, một vấn đề đã đi ra khỏi
địa hạt hẹp của mình, đến với các diễn đàn chính trị, các phong trào xã hội, và
nay còn đến với Giải Nobel.
https://5xublog.files.wordpress.com/2021/10/flocks-of-birds.jpg?w=546
No comments:
Post a Comment