Khảo
sát về chủ nghĩa xã hội kiểu Thụy Điển (P2)
Tác giả: Ngô Giang (Trung Quốc)
Biên dịch và chú thích: Nguyễn Hải Hoành
13/10/2021
http://nghiencuuquocte.org/2015/06/04/chu-nghia-xa-hoi-thuy-dien-p2/
Khái quát vài nét
về “chủ nghĩa xã hội dân chủ” Thụy Điển
Dưới ảnh hưởng tuyên truyền của Liên Xô, lâu
nay chúng ta có thành kiến rất sâu sắc về phong trào chủ nghĩa xã hội dân chủ
Tây Âu. Thực ra, cho tới ngày Liên Xô biến mất, người Liên Xô chưa bao giờ giới
thiệu cho chúng ta biết một cách khách quan, trung thực về tình hình thực sự của
phong trào xã hội dân chủ Tây Âu (kể cả mối quan hệ giữa các đảng cộng sản với
các đảng xã hội dân chủ), không phải là “phủ định nhiều, khẳng định ít”, mà là
phủ định toàn bộ. Trước hết, tôi muốn nói một điều: thật ra phong trào xã hội
dân chủ Tây Âu đã phức tạp lại đa dạng, tình hình các nước không hoàn toàn giống
nhau. Thụy Điển không ở vào vùng đất “trái tim” của thế giới tư bản, mà chỉ là
“tứ chi” thôi (“trái tim” và “tứ chi” là cách nói của Mác), cách khá xa vùng
trung tâm giành giật của các thế lực tư bản cường quyền, do đó cuộc cải cách xã
hội của Thụy Điển có thể tiến hành tương đối tự chủ mà không, hoặc ít chịu sự
can thiệp và ảnh hưởng của các thế lực ngoại quốc.
Ở đây cần đặc biệt chỉ ra một điểm: các đảng
XHDC, đảng xã hội, đảng công nhân thuộc “Quốc tế xã hội” thành lập năm 1923 ở
châu Âu có cách giải thích về “chủ nghiã xã hội dân chủ”, trên nguyên tắc và
trên nhiều mặt, khác với cách giải thích của chủ nghĩa Mác; nhất là chủ trương
“đa nguyên hoá tư tưởng”. Đảng XHDC Thụy Điển tuy cũng thừa nhận đa nguyên hoá
tư tưởng, nhưng họ vẫn kiên trì lấy học thuyết Mác Ăng-ghen làm tư tưởng chỉ đạo
chính của mình. Đây là một đặc điểm và ưu thế của họ.
Tại đây, tôi chỉ xin căn cứ vào Báo cáo Khảo
sát, chia nó ra thành đề mục để trình bày, tức dùng phương pháp “chỉ thuật
lại mà không viết thêm” (thuật nhi bất tác) để giới thiệu về tình hình xã hội
XHCN dân chủ ở Thụy Điển mà mọi người rất muốn tìm hiểu. Tôi xin phép khuyên bạn
đọc chịu khó đọc hết phần sau, chớ có bỏ qua một dịp tìm hiểu về chủ nghĩa xã hội
của Thụy Điển.
Về vấn đề tính chất của đảng Xã hội
dân chủ Thụy Điển và của xã hội Thụy Điển
Báo cáo khảo sát viết:
“Lâu nay, chúng ta [tức ĐCSTQ] luôn cho rằng đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển là một
đảng xét lại, xã hội Thụy Điển là một xã hội tư bản như các nước xã hội phương
Tây khác. Do đó, trong quá trình khảo sát, chúng tôi đã cực kỳ thẳng thắn hỏi
các bạn Thụy Điển: rốt cuộc đảng và xã hội của họ có tính chất như thế nào? Họ
trả lời rõ ràng: cho tới nay, họ vẫn tự cho rằng đảng XHDC Thụy Điển là một
chính đảng xã hội chủ nghĩa, xã hội Thụy Điển là một xã hội xã hội chủ nghĩa.
Lý do chủ yếu là: xét về lịch sử đảng XHDC Thụy Điển, năm 1889, khi thành lập đảng,
họ không có cương lĩnh và điều lệ đảng của riêng mình, mà sử dụng nguyên xi
cương lĩnh và điều lệ của đảng XHDC Đức hồi đó, do Ăng-ghen sáng lập. Khi chúng
tôi đến thăm Thụy Điển, tuy họ đang chuẩn bị sửa đổi lần thứ 7 cương lĩnh của đảng,
nhưng các tài liệu tuyên truyền phát đi vẫn ghi rõ: cơ sở lý luận của đảng XHDC
Thụy Điển là đa nguyên, song chủ yếu là chủ nghĩa Mác Ăng-ghen; cơ sở giai cấp
rộng rãi, nhưng chủ yếu là giai cấp công nhân. Chỉ có điều là ghi rõ: giai cấp
công nhân không những chỉ bao gồm công nhân cổ xanh mà còn gồm cả công nhân cổ
trắng…
Nhân vấn đề này, họ đặc biệt mời chúng tôi tới
thăm Nhà Trưng bày lịch sử đảng XHDC Thụy Điển. Nhìn thứ tự các bức ảnh được
treo ở đây, có thể thấy rõ: vị trí thứ nhất là Các Mác, thứ hai là Ăng-ghen, thứ
ba là Lát-xan,[7]
thứ tư là Bran-hân, nhà lãnh đạo đầu tiên của đảng XHDC Thụy Điển … Khi trao đổi
ý kiến với một số nhà nghiên cứu lý luận của đảng XHDC Thụy Điển, họ đặc biệt
nhấn mạnh: chủ nghĩa xã hội mà họ nói là có điều kiện, tức là trước đó phải
thêm từ “dân chủ”, nói hoàn chỉnh phải là xã hội “chủ nghĩa xã hội dân chủ“.
Nếu không thêm từ “dân chủ”, thì họ thà để người ta nói xã hội của họ là xã hội
tư bản, còn hơn là để nói là xã hội XHCN. Bởi lẽ, loại xã hội XHCN ấy đại biểu
cho xã hội XHCN kiểu Liên Xô, không có sức thu hút quần chúng, nghĩa là không
nhận được phiếu bầu của quần chúng, cũng tức là không thể nắm chính quyền và thực
thi các chính sách XHCN.
Về tính chất nền kinh tế Thụy Điển
Báo cáo Khảo sát viết:
“Theo cách nói của các bạn Thụy Điển, tính chất của kinh tế Thụy Điển vừa không
hoàn toàn là kinh tế tư bản, vừa cũng không phải hoàn toàn là kinh tế XHCN, mà
là một loại kinh tế hỗn hợp.[8]
Kinh tế hỗn hợp nghĩa là:
·
Về chế độ sở hữu thì thực
hành pha trộn chế độ sở hữu công cộng và chế độ tư hữu;
·
Về chế độ phân phối thì
thực hành phân phối theo lao động kết hợp với phân phối theo vốn (tư bản);
·
Về phương thức vận hành
kinh tế thì thực hành nhà nước điều hành vĩ mô kết hợp với kinh tế thị trường.
Trong đó, cốt lõi nhất là sự hỗn hợp về chế độ sở hữu, vì chỉ có làm được như
thế thì mới có thể thực hiện được sự hỗn hợp về chế độ phân phối và về phương
thức vận hành kinh tế. Tại sao chủ nghĩa xã hội phải thực hành kinh tế hỗn hợp?
Về vấn đề này, các bạn Thụy Điển đã dùng kinh nghiệm tự thân của đảng mình để
giới thiệu cho chúng tôi biết một bài học lịch sử rất sâu sắc của họ.
“Theo giới thiệu, khi đảng XHDC Thụy Điển
thành lập năm 1889, lúc đó Thụy Điển hãy còn là một trong những nước lạc hậu nhất
châu Âu, thậm chí dân chúng còn chưa có quyền tối thiểu là quyền bầu cử phổ
thông. Vì sức sản xuất còn kém và trình độ của đảng còn thấp, nên khi đảng
thành lập, họ không đưa ra được cương lĩnh của đảng, đành phải sử dụng nguyên
xi cương lĩnh của đảng XHDC Đức hồi đó, do Ăng-ghen lãnh đạo soạn thảo. Cương
lĩnh này quy định rõ ràng: về chính trị, phải thông qua bầu cử dân chủ để quá độ
hoà bình giành lấy chính quyền; về kinh tế, phải thực hiện chế độ sở hữu công cộng,
phân phối theo lao động và quản lý có kế hoạch. Sau hơn 30 năm phấn đấu, về
cách đề xuất phương thức mục tiêu đấu tranh chính trị tuy có mấy lần thay đổi,
như ban đầu đề khẩu hiệu phấn đấu là “đấu tranh giành quyền bầu cử”; sau khi đã
có quyền bầu cử thì sửa là “đấu tranh để được tham gia nghị viện”; sau khi đảng
đã có chân trong Quốc hội rồi, lại đề xuất “đấu tranh giành đa số trong Quốc hội”.
Thế nhưng, các mục tiêu kinh tế nói trên trong cương lĩnh lại không hề thay đổi.
Trong cuộc bầu cử năm 1920, số nghị sĩ của hai
đảng XHDC và đảng Nhân dân (thuộc phái bảo thủ) cộng lại đã vượt quá đa số
trong Quốc hội (phe đối lập chủ yếu là các nghị sĩ có liên quan tới Hoàng gia
Thuỵ Điển), số ghế nghị sĩ của đảng XHDC nhiều hơn của đảng Nhân dân, hai đảng
này đã lập chính phủ liên hợp cùng nắm chính quyền, người lãnh đạo của đảng
XHDC làm Thủ tướng. Do đảng XHDC là lực lượng chính trong chính phủ, nên đảng
này có điều kiện thực thi cương lĩnh kinh tế quy định trong Cương lĩnh của đảng,
bắt đầu dùng biện pháp thu mua và chuộc lại để xây dựng trên cả nước một số lượng
lớn các doanh nghiệp sở hữu công cộng, trong đó sở hữu nhà nước là chính. Nhưng
vì chưa thể giải quyết tốt vấn đề quản lý các doanh nghiệp nên chẳng bao lâu
sau, sức sống của các doanh nghiệp đó bị giảm sút, hiệu quả và lợi ích không
cao, trong nền kinh tế xuất hiện những khó khăn không đáng có. Trong cuộc bầu cử
năm 1924, số phiếu bầu cho đảng XHDC bị giảm mạnh, kết quả là đảng bị bật ra khỏi
chính phủ, đảng Nhân dân có tính bảo thủ lên nắm chính quyền. Theo cách nói của
các bạn Thuỵ Điển thì đảng đã đánh mất quyền lãnh đạo chính phủ.
“Trong tình hình đó, đảng XHDC Thụy Điển mới
bình tĩnh tổng kết bài học kinh nghiệm; qua thảo luận trong toàn đảng, họ rút
ra được một kết luận rất quan trọng. Đó là: đảng XHDC Thụy Điển là một chính đảng
XHCN, do đó phải kiên trì thực hiện CNXH; nhưng trong việc thực hiện CNXH thì xã
hội hoá quyền sở hữu không phải là một vấn đề căn bản; xã hội hoá phân phối mới
là vấn đề căn bản, tức thực thi phân phối công bằng của cải xã hội như thế
nào để bảo đảm quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động. Lập thật nhiều
doanh nghiệp sở hữu công cộng, nhà nước phải đầu tư rất lớn, tốn nhiều công sức
nhưng hiệu suất và lợi ích đều nói chung không cao, không làm ra được nhiều của
cải, nếu muốn phân phối một cách công bằng thì cũng chẳng có cơ sở vật chất
kinh tế lớn mạnh để làm chỗ dựa mà phân phối. Như vậy thì không có lợi bằng biện
pháp:
·
không lập nhiều doanh
nghiệp sở hữu công cộng (trừ các lĩnh vực bắt buộc phải do nhà nước làm),
·
khuyến khích ủng hộ sự
phát triển kinh tế sở hữu phi công cộng, để cho các doanh nghiệp tư nhân làm ra
càng nhiều của cải càng tốt,
·
chính phủ thực hiện phân
phối các của cải đó một cách hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu của người lao động.
·
Có thể giải quyết những vấn
đề và tệ nạn phát sinh trong quá trình phát triển các doanh nghiệp tư nhân trên
hai mặt sau:
·
sử dụng thế lực của công
đoàn ở tổ chức cơ sở tiến hành đấu tranh cần thiết;
·
sử dụng quyền lập pháp của
Quốc hội để hạn chế các tệ nạn đó ngay từ trên thượng tầng.
Đảng XHDC Thụy Điển đã dựa vào kết luận này để
sửa đổi lại cương lĩnh và điều lệ ban đầu của đảng, qua đó giành được sự ủng hộ
của quần chúng rộng rãi. Trong cuộc bầu cử năm 1932, đảng lại giành được đa số
trong Quốc hội và lại lên nắm chính quyền liên tục 44 năm liền, cho tới năm
1976 mới bị đảng Nhân dân thay thế một thời gian. Trong mấy chục năm đó, đảng
XHDC đã xây dựng Thụy Điển từ một nước kinh tế lạc hậu nhất châu Âu trở thành
nước kinh tế phát triển, đứng thứ 2 trên thế giới về GDP đầu người (sau Thụy
Sĩ). Mặc dù có vài lần bị đảng Nhân dân thay thế nhưng trong phần lớn thời gian
từ 1976 tới nay, đảng XHDC vẫn nắm chính quyền. Đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ
90 thế kỷ XX, phần phân phối đã được xã hội hoá trong toàn bộ của cải quốc dân,
tính theo tỷ lệ thu nhập tài chính của nhà nước so với GDP, đã đạt 57~58%. Nhờ
đó đã có điều kiện xây dựng Thụy Điển thành nước có phúc lợi xã hội nhiều nhất
thế giới, khiến cho lý thuyết xã hội hoá phân phối được vận dụng triệt để vào
trong thực tiễn.”
Về nguyên tắc phân phối thực hành tại
Thụy Điển
Báo cáo Khảo sát viết:
“Theo các bạn Thụy Điển giới thiệu, nguyên tắc phân phối của họ là: phải vừa có
lợi cho việc huy động, phát huy đầy đủ tính tích cực về mọi mặt, và nâng cao
năng suất lao động, lại vừa không để xuất hiện chênh lệch phân phối quá lớn (ý
nghĩa có chút giống như khẩu hiệu “ưu tiên năng suất, chiếu cố công bằng” mà
Trung Quốc mấy năm nay luôn nhấn mạnh). Biện pháp chủ yếu là: trong lần phân phối
đầu tiên phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên hiệu suất, nghĩa là người làm nhiều,
cống hiến nhiều thì phải được phân phối nhiều; ngược lại thì chỉ được phân phối
ít. Nhưng khi tái phân phối thì phải có sự điều tiết hợp lý, sao cho mức hơn
kém trong phân phối cuối cùng không quá lớn.
Bởi thế, cho tới nay trong cả nước Thụy Điển,
chỉ có một số cực ít các nhà doanh nghiệp xuất sắc, thí dụ những người như Tổng
Giám đốc hãng ô tô Volvo, mới được hưởng mức thu nhập trên 1 triệu cuaron mỗi
năm; còn nhìn chung chênh lệch về thu nhập thực tế của tuyệt đại đa số là không
lớn lắm.[9]
Thí dụ, lương của người lãnh đạo cao nhất trong chính phủ so với lương của công
chức nói chung, trước khi nộp thuế chênh lệch có thể tới gấp 4-5 lần, nhưng sau
khi nộp thuế, tỷ lệ chênh lệch chỉ còn bằng 2-3 lần. Điều đặc biệt là, ngoài
lương ra, họ không có bất kỳ phụ cấp cấp bậc và phụ cấp chức vụ nào khác; cho
nên tỷ lệ chênh lệch nói trên là rất nhỏ. Khi giới thiệu với chúng tôi, các bạn
Thụy Điển nói chênh lệch thu nhập ở Thụy Điển có lẽ là nhỏ nhất thế giới. Tại
Thụy Điển, cơ bản đã thanh toán xong cái gọi là sự cách biệt giữa thành thị với
nông thôn, giữa công nhân với nông dân, giữa lao động trí óc với lao động chân
tay. Về vấn đề này, mới đầu chúng tôi còn nửa tin nửa ngờ; nhưng sau khi quan
sát thực địa một số gia đình thuộc các diện khác nhau, chúng tôi cảm thấy đúng
là về đại thể là như vậy.”
Về chế độ phúc lợi ở Thụy Điển
Báo cáo khảo sát viết:
“Mọi người đều biết, phúc lợi xã hội ở Thụy Điển ở mức nhiều nhất thế giới.
Ngoài 4 loại bảo hiểm lớn được pháp luật qui định (như các nước Tây Bắc Âu
khác): bảo hiểm hưu trí dưỡng lão, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
tai nạn lao động, còn có nhiều loại hình phúc lợi xã hội khác, nhiều đến mức
người ta hình dung Thụy Điển là nước mà người dân “từ khi lọt lòng đến khi chết”
đều được hưởng phúc lợi. Căn cứ theo kết quả khảo sát của chúng tôi thì câu nói
trên đúng là “danh bất hư truyền”. Thí dụ:
·
Chế độ dưỡng lão:
người lao động về hưu được định kỳ lĩnh lương hưu đủ sống, người già yếu không
tự lo liệu cuộc sống được thì có thể vào ở trong viện dưỡng lão của nhà nước,
được hưởng sự chăm sóc y tế miễn phí, điều kiện sống tại đây tương đương với
khách sạn 3 sao.
·
Chế độ bảo hiểm thất nghiệp: nếu người lao động thất nghiệp, họ được định kỳ lĩnh tiền cứu tế thất
nghiệp, được các trung tâm giới thiệu việc làm của nhà nước miễn phí giới thiệu
việc làm trong phạm vi toàn quốc. Nếu nơi làm việc mới cách xa chỗ ở hiện nay,
nhà nước có thể giúp một phần kinh phí dọn nhà.
·
Chế độ giáo dục:
không những tất cả mọi người đều được đi học không mất tiền suốt đời mà luật
pháp còn qui định, từ nhà trẻ cho đến bậc trung học, nếu trong lớp có một học
sinh người nước ngoài, thì nhà trường phải bố trí một giáo viên biết tiếng mẹ đẻ
của em đó (dĩ nhiên đều là giáo viên kiêm nhiệm), mỗi tháng phải lên lớp một số
giờ nhất định bằng tiếng mẹ đẻ cho em này. Ở bậc đại học, từ lúc vào học cho đến
lúc tốt nghiệp, tuy có qui ước số năm học nhất định nhưng pháp luật qui định, nếu
học sinh nào tốt nghiệp rồi mà chưa tìm được công việc thích hợp và không muốn
rời nhà trường thì có thể tiếp tục học tập miễn phí. Các bạn Thụy Điển cho biết,
hiện nay hầu như ở trường nào cũng có những sinh viên lớn tuổi đã học 7-8 năm
hoặc hơn trong trường.
·
Chế độ sinh đẻ: phụ
nữ sinh con được nghỉ đẻ 18 tháng có lương (12 tháng đầu hưởng 100% lương, 6
tháng cuối hưởng 90%). Nếu đến tháng thứ 18 lại có thai, sẽ tiếp tục được nghỉ
tiếp hưởng 90% lương cho đến khi đứa trẻ ra đời lại được hưởng chế độ nghỉ đẻ
18 tháng. Ngoài ra, nếu người vợ làm công việc tương đối quan trọng không thể
hoặc không muốn nghỉ ở nhà quá lâu như vậy, thì hai vợ chồng có thể bàn bạc để
chồng có thể nghỉ thay vợ.
·
Chế độ nhà tù:
người bị giam giữ hoặc tội phạm đang lĩnh án được nhà nước nuôi ăn ở không mất
tiền, ngoài ra, mỗi tháng còn được lĩnh một khoản tiền mặt trợ cấp tuy không lớn
nhưng cũng không phải là nhỏ lắm. Nhờ các khoản phúc lợi xã hội nói trên, đời sống
cơ bản của mỗi người dân trong bất kỳ tình huống nào đều có sự bảo đảm cần thiết.
Vì thế bộ mặt xã hội nói chung là tốt đẹp, cuộc sống yên bình, trật tự nền nếp,
thực là có cái cảnh “ra đường không sợ mất cắp, đêm nằm không phải đóng cửa”.
Các cán bộ sứ quán Trung Quốc ở đây cho biết, mấy chục năm qua họ rất ít khi bị
mất cắp.
“Dĩ nhiên sự việc nào cũng có hai mặt. Qua một
số điều chúng tôi đã tiếp xúc hoặc nghe kể, chế độ phúc lợi suốt đời nói trên của
Thụy Điển ít nhất cũng tồn tại các vấn đề và mâu thuẫn trên hai mặt sau.
Thứ nhất, chế độ phúc lợi cao này
là dựa vào chế độ thu thuế cao. Do thu thuế cao nên thu nhập tài chính nhà nước
của Thụy Điển chiếm gần 60% GDP, mức cao nhất thế giới. Nghĩa là gần 3/5 của cải
toàn xã hội bị nhà nước tập trung vào tay mình, tỷ lệ để lại cho các doanh nghiệp
và người dân quá nhỏ, trên mức độ nhất định tất sẽ ảnh hưởng tới tính tích cực
của doanh nghiệp và người lao động. Đặc biệt là thuế suất luỹ tiến của thuế thu
nhập, bậc cao nhất từng dùng thuế suất trên 80% (nay vẫn trên 70%), nghĩa là gần
hết số tiền mà người lao động vất vả kiếm được lại không được hưởng. Điều đó dẫn
đến trường hợp khi doanh nghiệp hoặc đơn vị cần hoàn thành một công việc cần
kíp thì ngoài 8 giờ làm việc ra, người lao động nói chung đều không muốn làm
ngoài giờ, vì thu nhập làm thêm mình chẳng được hưởng bao nhiêu. Bất mãn nhất
là những người có thu nhập cao. Thập kỷ 80, một danh thủ quần vợt nổi tiếng thế
giới người Thụy Điển chỉ vì bất mãn với thuế suất quá cao của nước này đã bỏ
sang Anh định cư.
Thứ hai, chế độ phúc lợi cao rất
dễ bị một số người lợi dụng kiếm chác những khoản lợi ích họ không đáng được hưởng.
Trong thời gian thăm Thụy Điển, khi đến một gia đình công nhân được gọi là có
thu nhập thấp nhất, chúng tôi đã phát hiện vấn đề đó. Gia đình này có 4 cô con
gái rồi, nhưng bà chủ lại có thai tiếp. Cảm thấy rất kỳ lạ, chúng tôi hỏi ông
chủ tại sao đẻ nhiều như vậy. Ông trả lời: tôi đã tính toán từ lâu, thấy để vợ ở
nhà đẻ con là có lợi nhất. Chẳng những bà ấy được nghỉ một năm rưỡi có lương,
mà khi hết thời hạn đó lại có thai nữa thì tiếp tục được nghỉ ở nhà vẫn có
lương, nghĩa là bà ấy được nghỉ phép dài hạn ở nhà cai quản công việc nội trợ
phức tạp. Hơn nữa, chính phủ còn khuyến khích sinh đẻ, ai có nhiều con thì được
hưởng chế độ trợ cấp luỹ tiến; cứ thêm một con thì hàng tháng được trợ cấp thêm
ít nhất 1.000 cuaron, lại không phải đóng thuế thu nhập, như thế rõ ràng làm
tăng thu nhập của nhà tôi. Khi chúng tôi hỏi: như thế, ông có bị thiệt hại gì
không? Mới đầu ông ta bảo không, nhưng sau một lúc suy nghĩ, lại bảo là cũng có
thiệt ở chỗ không thể đi du lịch xa, vì vợ con lóc nhóc đông quá đi xa rất bất
tiện … Câu chuyện này cho thấy, chế độ phúc lợi xã hội quá cao quá nhiều của Thụy
Điển cũng cần thiết phải điều chỉnh, cải tiến hợp lý.
Về công bằng xã hội ở Thụy Điển
Báo cáo Khảo sát viết:
“Qua nhiều thực tế chúng tôi đã tìm hiểu và tiếp xúc trong quá trình khảo sát,
có thể nói xã hội Thụy Điển tương đối công bằng. Tuy không thể nói Thụy Điển
hoàn toàn không có chế độ đặc quyền đẳng cấp, lối sống không lành mạnh và hiện
tượng tham nhũng thường thấy ở nhiều nước khác, nhưng qua tai nghe mắt thấy thì
các hiện tượng đó đúng là không nhiều. Tại sao xã hội Thụy Điển có thể thực hiện
được tương đối công bằng? Chủ yếu là do:
“(1). Có chế độ pháp luật hoàn thiện,
có thể hạn chế một cách hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất công xã hội.
Thí dụ, pháp luật quy định rõ: trừ Quốc vương ra, bất cứ ai, kể cả Thủ tướng,
khi ra ngoài đều không được mang theo nhân viên bảo vệ. Chính vì thế mà Thủ tướng
Thụy Điển kiêm Chủ tịch đảng XHDC nước này là ông Ô-lôp Pan-mơ [Olof Palme,
1927-1986] đã bị ám sát. Hôm đó, vào cuối năm 1986 (không lâu trước ngày chúng
tôi thăm Thụy Điển), sau giờ làm việc, ông Pan-mơ cùng vợ đi tầu điện ngầm đến
xem phim ở một rạp chiếu bóng trong khu phố đông vui nhất thủ đô Xtốc-khôm
[Stockholm]. Xem phim xong, hai người ra về, khi đang đi bộ trên đường phố, sắp
đến một ga tầu điện ngầm thì ông Pan-mơ bị một kẻ lạ mặt bắn chết; nghe nói cho
tới nay vẫn chưa tìm ra hung thủ. Sau vụ này, Thụy Điển mới sửa đổi luật, quy định
Thủ tướng khi ra ngoài cũng có thể mang theo nhân viên bảo vệ. Khi chúng tôi đến
thăm chỗ ông bị ám sát, vẫn còn thấy vết máu trên đường, thỉnh thoảng có người
mang hoa đến đặt lên chỗ có vết máu tỏ lòng thương tiếc.
“Luật pháp cũng ghi rõ: trong cả nước, chỉ một
số rất ít cấp lãnh đạo như Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao,
Bộ trưởng Quốc phòng mới được nhà nước cấp ô tô công vụ, còn tất cả các quan chức
khác chỉ được đi lại bằng các phương tiện giao thông công cộng hoặc xe tư của
mình. Quy định trên không những giảm rõ rệt biên chế nhân viên cơ quan nhà nước
và chi phí, mà còn ngăn chặn được tình trạng lợi dụng xe công làm việc tư, cũng
như các tác phong không lành mạnh khác.
“Pháp luật còn quy định rõ: trong công việc
giao thiệp với khách nước ngoài, người lãnh đạo ở cấp nào thì được nhận quà tặng
trị giá bao nhiêu. Chúng tôi đã có một lần tự mình thấy rõ điều này. Năm 1985,
lần đầu tiên tôi theo Đoàn Cải cách cơ chế đến Thụy Điển khảo sát, đơn vị đón
tiếp chính về phía bạn là Bộ Công nghiệp. Trong buổi làm việc với bà Bộ trưởng
Bộ này, chúng tôi có tặng bà một đôi bình hoa nhỏ Cảnh-Thái-Lam cao khoảng 7-8
tấc Anh, sản xuất tại Bắc Kinh, để làm kỷ niệm. Sau khi mở hộp giấy bọc và xem
món quà, bà kinh ngạc khen: Đẹp quá! Nhưng rồi bà lại thở dài: Rất tiếc là tôi
không được mang món quà này về nhà. Lúc đó chúng tôi đều không hiểu tại sao bà
lại nói thế. Khi ra về, tôi có hỏi một cán bộ Sứ quán Trung Quốc cùng dự buổi
tiếp hôm ấy, mới biết luật pháp Thụy Điển có quy định, lãnh đạo cấp Bộ trưởng
trong hoạt động ngoại giao chỉ được nhận quà biếu có giá trị lớn nhất không quá
1.500 cuaron (khoảng 180 đôla Mỹ). Loại bình hoa chúng tôi biếu, ở Bắc Kinh thì
không đáng bao nhiêu tiền, nhưng ở Thụy Điển thì ước tính có thể hơn 1.500
cuaron. Do đó bà Bộ trưởng không thể mang về nhà, mà chỉ có thể để ở phòng làm
việc. Bao giờ mãn nhiệm, giả thử tân Bộ trưởng đến có nói món quà này nếu bà
thích thì lấy đi; lúc đó mới có thể đem về nhà mình.
“(2). Dư luận giám sát công khai, là biện
pháp hạn chế mạnh mẽ sự phát sinh và lan tràn các hiện tượng bất công xã hội. Về
mặt này, năm 1988, khi chúng tôi đến Thụy Điển và Áo [Austria] khảo sát, ở cả
hai nước đều gặp những chuyện cụ thể. Chúng tôi tới Thụy Điển đúng vào lúc cô
con gái của một vị Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đảng XHDC Thụy Điển (tương
đương Uỷ viên Bộ Chính trị ĐCSTQ) và là Chủ tịch Công đoàn toàn quốc, có chuyện
rắc rối: báo chí tố giác cô này chưa đủ tiêu chuẩn được phân phối nhà nhưng vẫn
được chia nhà, và phê phán ông Chủ tịch Công đoàn lợi dụng đặc quyền đảng XHDC
đang nắm chính quyền để tư lợi. Vì vấn đề này, đảng XHDC đã tổ chức một cuộc họp
báo để công khai giải thích và tỏ thái độ. Trong họp báo, ông Chủ tịch Công đoàn
tuyên bố: việc này ông không được biết trước, là do con gái ông tự làm; dĩ
nhiên, ông có trách nhiệm là giáo dục con chưa nghiêm, ông nhất định sẽ đôn đốc
con gái trả lại nhà nước căn nhà này, và sẵn sàng nhận sự phán xử của luật
pháp. Sau đó, vụ tai tiếng này mới chìm xuống.”
Về vấn đề địa vị trong xã hội của
chính đảng và của người lãnh đạo
Vấn đề này được Báo cáo Khảo sát dành
riêng một đoạn viết về những gì đã tìm hiểu khảo sát được: “Cuộc cạnh tranh gay
gắt giữa các chính đảng và nguy cơ sống còn của đảng đã buộc lãnh đạo các cấp
và tầng lớp công chức phải đối xử với quần chúng nhân dân bằng một thái độ bình
đẳng và giải quyết các công việc xã hội theo nguyên tắc công bằng. Về chính trị,
Thụy Điển thực hành cái gọi là chế độ dân chủ kiểu phương Tây, các chính đảng cạnh
tranh với nhau rất gay gắt, lá phiếu bầu của quần chúng quyết định đảng nào được
lên vũ đài chính trị nắm chính quyền, sự sống còn của đảng trên một mức độ lớn
cũng phụ thuộc vào lá phiếu bầu cử của nhân dân. Nhà nước không cấp kinh phí vô
điều kiện cho các chính đảng, nguồn kinh phí hoạt động của các đảng phải trông
vào đảng phí của đảng viên nộp và các nguồn tự gây quỹ, phần khá lớn nữa là
kinh phí chính phủ cấp dựa vào số lượng nghị sĩ của đảng trong Quốc hội. Đảng
nào không nhận được nhiều phiếu bầu của quần chúng thì không vào được Quốc hội,
do đó không có khoản kinh phí nói trên, như vậy sẽ rất khó tồn tại lâu dài.
Bởi lẽ đó, dù là nguyện vọng chủ quan thế nào
đi nữa, trong mọi hoạt động, đảng XHDC Thụy Điển đều bắt buộc phải luôn giữ cho
mình một hình ảnh giầu mà không xa xỉ, bình đẳng đối xử với quần chúng, bảo đảm
công bằng xã hội. Thí dụ: tuy đảng XHDC Thụy Điển đã nhiều lần nắm chính quyền
và một lần nắm chính quyền liền 44 năm, nhưng vào cuối thập kỷ 1980 khi chúng
tôi đến đây khảo sát, cơ quan trung ương đảng của họ vẫn chỉ có 50-60 nhân viên
công tác. Tỉnh uỷ tỉnh Goteborg chỉ có 5~6 người. Khi chúng tôi đến làm việc với
họ, chỉ thấy một cán bộ làm tất cả mọi việc, từ giới thiệu tình hình, toạ đàm
trao đổi ý kiến, dẫn đi tham quan các nơi, hướng dẫn du lịch, và cả việc lái xe
nữa. Họ cho biết, tỉnh uỷ Goteborg có 3~400 chi bộ phân tán trong các cộng đồng
phường xã (vì pháp luật quy định không được tổ chức chi bộ đảng trong các doanh
nghiệp và cơ quan đơn vị), mỗi tháng ít nhất tỉnh uỷ phải đến mỗi cơ sở một lần
để tìm hiểu nắm tình hình, chỉ đạo công tác và truyền đạt chỉ thị của cấp trên;
do đó công tác của họ rất bận.
Năm 1985, khi tôi theo Đoàn Cải cách cơ chế
thăm Thụy Điển lần đầu, hôm đến Goteborg đúng vào Chủ nhật, Chủ tịch tỉnh và Chủ
tịch Hội đồng nhân dân tỉnh cùng tổ chức chiêu đãi chúng tôi trong một pháo đài
trên núi gần biên giới với Na-uy. Phòng tiệc bày biện sang trọng nhưng ăn uống
rất đơn giản. Sau bữa ăn, họ mời ra quảng trường ngoài pháo đài nghe một đoàn
nhạc giao hưởng vừa từ Moskva trở về biểu diễn. Khách nghe nhạc, từ toàn đoàn
chúng tôi cho tới Chủ tịch tỉnh và Chủ tịch HĐND tỉnh, tất cả đều không có chỗ
ngồi, mà cùng đứng chung với khách du lịch suốt hơn một giờ. Trên đường về
thành phố, khi ô tô chúng tôi sắp lên phà qua sông, bỗng một chiếc xe phía trước
không nổ được máy. Lúc đó, Chủ tịch HĐND ngồi bên cửa xe (ông này thọt chân) và
Chủ tịch tỉnh lẳng lặng xuống xe trước tiên, cùng mọi người đẩy xe cho tới lúc
xe nổ máy được mới thôi. Cảnh này thật làm mọi người cảm động.
“Nguyên tắc công bằng xã hội nói trên của các
bạn Thụy Điển không những chỉ thể hiện trong việc giải quyết các công việc
trong nước, mà đối với các bạn nước ngoài cũng vậy. Lần đi Thụy Điển năm 1988,
hôm tới Xtốc-khôm đúng vào hai ngày nghỉ cuối tuần, vì không bố trí được phòng
trọ cho chúng tôi trong thành phố, họ đưa chúng tôi đến trọ tại nhà nghỉ của một
công đoàn trên hòn đảo ngoài biển gần đấy. Xung quanh nhà nghỉ là cánh đồng tuyết,
khu nhà nghỉ không có tường bao cũng chẳng có người bảo vệ, rất ít nhân viên phục
vụ. Mỗi người chúng tôi được bố trí ở trong một căn phòng khoảng chục mét
vuông, kể cả trưởng đoàn cũng vậy, tuy có được thêm một phòng khách cũng nhỏ
như thế, chỉ vừa đủ chỗ kê mấy chiếc ghế xô pha. Nghe nói đây là căn phòng ông
Các-xơn (Carsson), đương kim Chủ tịch đảng XHDC và Thủ tướng chính phủ Thụy Điển,
thường đến nghỉ. Hết hai ngày cuối tuần, họ đưa chúng tôi về thành phố, bố trí
trọ tại một khách sạn vừa không đồ sộ, thiết bị lại vừa chưa đạt tiêu chuẩn
khách sạn ba sao ở Trung Quốc. Trưởng đoàn chúng tôi cũng không được đặc cách ở
phòng sang hơn, mà cũng chỉ ở một phòng tiêu chuẩn như mọi đoàn viên.
“Những người lãnh đạo Thụy Điển rất chú ý giữ
gìn hình ảnh công bằng xã hội tốt đẹp nói trên, khi họ còn sống cũng như khi giải
quyết việc tang lễ cho người lãnh đạo. Như ông Pan-mơ bị ám sát năm 1988, sinh
thời ông vừa là Thủ tướng và Chủ tịch đảng XHDC Thụy Điển, mà còn là Chủ tịch
Quốc tế của các đảng Xã hội, có ảnh hưởng lớn trên thế giới và ở châu Âu, có uy
tín cao trong nước, cống hiến đối với đảng và với nước đều không nhỏ. Nhưng sau
khi ông qua đời, người ta không dựng nhà kỷ niệm hoặc bia kỷ niệm ông, cũng
không xây cất cho ông một ngôi mộ sang trọng, mà chỉ mai táng tro xương ông
trong một nghĩa trang công cộng phía sau nhà thờ gần dãy phố nơi ông bị ám sát.
Ngôi mộ ông là một khối hình hộp bằng đá cẩm thạch màu đen, diện tích khoảng 4
mét vuông, trên dựng một phiến đá cao chừng 1 mét có chữ ký của Pan-mơ. Nghe
nói phiến đá này trước đây ở quê ông, mỗi lần về quê vận động tranh cử, Pan-mơ
đều đứng trên phiến đá này để diễn thuyết, nên người ta mang nó về đây để làm kỷ
niệm.”
Phần trích dẫn Báo cáo khảo sát đến đây
xin dừng lại, chủ yếu dùng cách sao chép. Theo tôi nghĩ, phần trích dẫn trên đã
đưa ra một phác thảo khái quát để bạn đọc có thể hiểu được tình phong trào xã hội
dân chủ Thụy Điển cùng các thành tựu đạt được.
Cảm tưởng sau khi
đọc Báo cáo Khảo sát
Trước hết, ta nên nhắc lại những nguyện vọng của
Ăng-ghen gửi gắm vào phong trào xã hội chủ nghĩa trong mấy năm cuối đời ông. Dĩ
nhiên, Ăng-ghen không thể thấy trước những tình hình mới sau khi chủ nghĩa tư bản
phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, càng không thể dự kiến được việc Thế chiến
I đã làm cho trọng điểm phong trào XHCN chuyển từ Tây Âu đến nước Nga và phương
Đông lạc hậu về kinh tế. Sau Cách mạng Tháng Muời Nga, nhiều người đặt hy vọng
vào cách mạng XHCN ở Tây Âu. Khi làn sóng cách mạng đó bị lắng xuống, vấn đề
cách mạng XHCN của các nước tư bản Tây Âu nên đi con đường nào lại trở nên một
vấn đề thời sự. Phong trào không thể dừng lại, nhưng rõ ràng, đường lối thì có
khác với đường lối của Cách mạng Tháng Muời Nga.
Chúng ta có đầy đủ lý do để nhớ lại một sách
lược quan trọng do Ăng-ghen đề ra năm 1894 — cho rằng giai cấp công nhân nên “sử
dụng quyền bầu cử làm một vũ khí mới của giai cấp công nhân” và nhấn mạnh “giành
quyền bầu cử, giành dân chủ là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
giai cấp vô sản chiến đấu” — sách lược này vẫn thích hợp với nhu cầu của
giai cấp công nhân đang chiến đấu trong các nước tư bản Tây Âu thời kỳ sau Thế
chiến I. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Muời Nga, trên thế giới hình thành sự
đối lập gay gắt giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình đó,
dĩ nhiên các đảng XHDC ở các nước tư bản sẽ gặp nhiều trắc trở phức tạp trong
quá trình vận dụng sách lược đó; điểm này tôi đã trình bày ở phần trên. Thế
nhưng, phong trào chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Thụy Điển cùng các thành tựu của
nó — như Báo cáo Khảo sát đã giới thiệu với chúng ta — ít nhất cũng cho
thấy việc vận dụng sách lược nói trên vào các nước tư bản Tây Âu không phải là
không thu được thành tích nào. Do đó, giờ đây ngoài việc quan tâm đến những
kinh nghiệm tự thân về CNXH mà chúng ta thu được (gồm kiểm tra, tổng kết và cải
cách tự thân), đồng thời ta cũng nên có thái độ khoa học, khiêm tốn khảo sát
tình hình phong trào XHCN phương Tây cùng các thành quả của nó (gồm cả thất bại
và thành công). Hai loại kinh nghiệm này, do tình hình mỗi nước và điều kiện lịch
sử khác nhau, cố nhiên có những cái không thể so sánh được, song cũng có một số
điểm nào đó có thể so sánh được hoặc có thể tham chiếu được.
Về vấn đề này, thực ra bản thân Báo cáo Khảo
sát đã ghi chép lại các suy nghĩ và cảm tưởng của người khảo sát. Nay xin
trích dẫn như sau:
“Qua chuyến thăm này, chúng tôi đã hiểu biết
tương đối nhiều và tương đối sâu về tình hình của đảng XHDC Thụy Điển (và đảng
Xã hội Áo), mọi người đều cảm thấy thu hoạch rất lớn. Thế nhưng, rốt cuộc thì
CNXH kiểu Thụy Điển và CNXH kiểu Liên Xô có gì giống nhau và khác nhau? Rốt cuộc
nên phân tích và nhận thức như thế nào về mối quan hệ giữa Quốc tế II với Quốc
tế III, giữa chủ nghĩa xét lại với chủ nghĩa Lê-nin, và giữa đảng Xã hội kiểu
Thụy Điển với đảng Cộng sản kiểu Liên Xô, thì chúng tôi cảm thấy có chút khó hiểu.
Bởi thế, hồi đó, sau khi thăm Thụy Điển, trên đường về nước nhân ghé qua Paris,
chúng tôi đã tổ chức một cuộc toạ đàm, có mời vài đồng chí trong đại sứ quán
Trung Quốc tại Pháp cùng dự. Từ các phát biểu trong và ngoài toạ đàm, có thể nhận
thấy có hai loại cách nói và cảm tưởng đối với các vấn đề nêu trên. Thật bất ngờ,
hai loại ý kiến này không hẹn mà lại trùng hợp nhau; cho đến nay tôi vẫn cho rằng
đó là những ý kiến rất đáng để chúng ta suy nghĩ sâu sắc và tham khảo.
“Một loại cảm tưởng cho rằng, đường lối cách mạng,
phương châm và phương pháp cách mạng mà lý luận của Quốc tế II và lý luận của
Quốc tế III cũng như đảng Xã hội kiểu Thụy Điển và đảng Cộng sản kiểu Liên Xô
đã tuân theo, đều là đúng, hoặc là có lý lẽ cả; sự khác biệt giữa hai
bên chủ yếu là do tình hình trong nước của mỗi bên không giống nhau.
Quốc tế II và đảng Xã hội về cơ bản đại diện
cho các nước tương đối phát triển về xã hội và kinh tế thời đó. Các nước này đã
xây dựng được chế độ bầu cử dân chủ; mỗi chính đảng đều có thể qua bầu cử mà nắm
được đa số trong nghị viện, rồi quá độ hoà bình lên nắm chính quyền, từ đó thực
thi cương lĩnh và chính sách của đảng mình. Sau thập kỷ 20 thế kỷ XX, đảng Xã hội
(hoặc đảng Xã hội dân chủ, Công đảng) ở phần lớn các nước châu Âu đều lên nắm
chính quyền thông qua hình thức bầu cử dân chủ, thậm chí nắm chính quyền khá
lâu, và thực thi các loại chính sách cải cách xã hội; tác dụng của các đảng này
trong việc thúc đẩy sự cải lương và phát triển kinh tế xã hội thậm chí cả chế độ
chính trị ở các nước đó, là không thể bỏ qua, và là sự chứng minh hùng hồn nhất.
Quốc tế III và đảng Cộng sản về cơ bản đại diện
cho một số nước kinh tế xã hội tương đối lạc hậu hồi đó. Những nước này không
những chưa xây dựng được chế độ bầu cử dân chủ, mà hơn nữa, bọn phản động nắm chính
quyền được vũ trang tận răng lại có quyền tự do đàn áp các lực lượng cách mạng.
Tại các nước này, nếu không tiến hành đấu tranh vũ trang thì không thể nào lật
đổ được ách thống trị của bọn phản động, không thể giành được chính quyền, củng
cố chính quyền và thực thi cương lĩnh và chính sách XHCN. Nhưng đối với các nước
đó, về tư tưởng chỉ đạo, có một điểm cần phải làm hết sức rõ: biện pháp đấu
tranh vũ trang để cướp chính quyền chỉ có tác dụng “bà đỡ” đối với CNXH; đánh
giá theo tiêu chuẩn và yêu cầu của CNXH Mác-xít thì trên thực tế các nước này lại
chưa “đạt yêu cầu” trên hai mặt cực kỳ quan trọng sau đây: (1) CNXH yêu cầu
phát triển cao độ trình độ sức sản xuất; (2) CNXH yêu cầu phải có nền
pháp chế dân chủ hoàn thiện. Bởi vậy sau khi chính quyền XHCN ra đời dưới sự “đỡ
đẻ” của biện pháp đấu tranh vũ trang, phải hạ quyết tâm tranh thủ “học bù” hai
bài học này (đây chính là nguyên nhân Trung Quốc tự xác định mình còn đang ở
trong “giai đoạn sơ cấp của CNXH”; nhiệm vụ của giai đoạn này là để “học bù” hai
bài học nói trên, nhằm chuẩn bị điều kiện xây dựng thành công CNXH thực sự — ghi
chú của Ngô Giang).
Nếu có thể nhận thức như vậy về vấn đề này,
thì sau khi cách mạng thành công, xây dựng được chính quyền mới rồi, trừ phi đất
nước bị xâm lược, nếu không, phải tranh thủ thời cơ tập trung lực lượng học thật
nhanh thật tốt hai bài “học bù” này, dựa vào tính ưu việt của chế độ XHCN sẽ có
khả năng nhanh chóng đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đuổi kịp
trình độ của các nước phát triển, xây dựng thành công CNXH thật sự. Nếu không
nhận thức vấn đề như vậy, mà cứ chủ quan cho rằng chỉ cần qua đấu tranh vũ
trang xây dựng chính quyền mới thì mình đã là một nước XHCN “đủ tiêu chuẩn” rồi;
ai không đồng ý với ý kiến đó, hoặc tỏ ý nghi ngờ gì, thì thẳng tay kiên quyết
loại bỏ, đả kích thậm chí đàn áp họ. Như vậy không những rất khó xây dựng thành
công CNXH “đủ tiêu chuẩn” thật sự, hơn thế còn có thể trở thành một thứ chủ
nghĩa cực quyền kiểu phong kiến nửa phong kiến, như Liên Xô thời kỳ Stalin trước
đây. Cuối cùng, không những không xây dựng thành công CNXH chân chính, mà còn bị
quảng đại quần chúng và cán bộ phản đối, thậm chí vứt bỏ.
Một loại cảm tưởng khác cho rằng, mối quan hệ
giữa Quốc tế III với Quốc tế II, giữa đảng Cộng sản kiểu Liên Xô với đảng Xã hội
kiểu Thụy Điển thì giống như mối quan hệ giữa đạo Thiên chúa với đạo Tin lành,[10]
“tổ tiên” của cả hai đều là một nhà. Chẳng qua, Quốc tế III và đảng Cộng sản kiểu
Liên Xô chủ trương kiên trì tiến hành mọi cái theo nguyên văn lời của “tổ tiên”
không sai một chữ (cách nói này có thể bàn lại: làm cách mạng XHCN tại các nước
kinh tế lạc hậu thực ra đúng là không theo nguyên văn lời của “tổ tiên”; cái gọi
là khuynh hướng thuyết độc tôn giáo lý cơ bản[11]
thì thể hiện ở một mặt khác. — Ghi chú của Ngô Giang), không được vượt
qua, có chút giống như thuyết độc tôn giáo lý cơ bản người ta thường
nói. Còn Quốc tế II và đảng Xã hội kiểu Thụy Điển thì chủ trương tiến cùng thời
đại, căn cứ theo sự phát triển của thời đại và sự biến đổi của xã hội mà không
ngừng cải cách đổi mới, nhằm tạo thuận lợi cho việc mở rộng và thực thi ảnh hưởng
và chủ trương của lý luận do “tổ tiên” đề xướng, từ đó giành được thắng lợi lớn
hơn.”
Ngày nay, xem ra hai mô hình tiến lên chủ
nghĩa xã hội nói trên đều có tính tất nhiên và tính chính đáng lịch sử. Còn nói
về việc nhìn nhận hai mô hình đó và mối quan hệ giữa chúng với nhau, thì đây là
một vấn đề nên xem xét thận trọng và nghiên cứu kỹ. Mong rằng trên vấn đề này sẽ
nhận được nhiều cao kiến của các bạn đọc.
—————–
Nguồn: Khảo sát về chủ nghĩa xã
hội kiểu Thụy Điển: Nhân đọc “Một bản báo cáo khảo sát đến muộn”, Chủ nghĩa
Mác và Hiện thực số tháng 3/2002, Tạp chí hai tháng một kỳ, tiếng Trung Quốc.
Cơ quan chủ trì tạp chí: Cục Biên dịch thuộc Trung ương Đảng CSTQ.
Tác giả Ngô Giang là giáo sư, nguyên Viện trưởng
Học viện Chủ nghĩa xã hội Trung ương, thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Báo cáo mà tác giả đề cập là của Dương Khải
Tiên, được viết sau chuyến khảo sát Thụy Điển hồi những năm 1980, khi Liên Xô
còn đang vững mạnh.
Nguyễn Hải Hoành lược dịch và làm toàn bộ các
chú thích ở cuối trang và trong ngoặc.
——————
[7]
Ferdinand Lassalle (1825-1864), người Đức, nhà văn, người tuyên truyền cổ động
cho công nhân, thuộc giai cấp tiểu tư sản; tham gia Cách mạng 1848-1849, quen
biết Mác và Ang-ghen từ đó (trao đổi thư từ cho đến 1862); thành lập Hội Công
nhân toàn Đức (1863) và là Chủ tịch Hội, bằng việc đó, ông đã đáp ứng nguyện vọng
của các công nhân tiến bộ muốn tách khỏi giai cấp tư sản tự do về mặt tổ chức.
Hệ tư tưởng “CNXH nhà nước quân chủ Phổ” đã dẫn Lassalle tới chỗ liên minh với
Bismarck, do đó bị Mác phê phán. ( theo Sđd3).
[8]
Năm 2001, thành phần tư nhân chiếm 90% giá trị sản xuất công nghiệp (theo
Sđd2).
[9]
Số liệu năm 1992 : 10% số người có thu nhập thấp nhất chiếm 3,7% tổng thu nhập toàn
quốc, 10% số người có thu nhập cao nhất chiếm 20,1%. Nghĩa là chênh lệch
giầu nghèo khá nhỏ so với các nước khác : chỉ số này ở Pháp là 2,5 và 24,9%
(1989); ở Mỹ là 1,5 và 28,5% (1994); ở Trung quốc là 2,2 và 30,9% (1995). (theo
Sđd2).
[10]
Nguyên văn chữ Hán là Ki Tô Giáo. Chú ý: Trung quốc quen dùng Ki Tô Giáo
để chỉ Tân Giáo (tức đạo Tin lành, tiếng Anh là Protestantism). Đạo Thiên chúa
(còn gọi Công giáo): Roman Catholic.
[11]
Fundamentalism (chủ nghĩa tin theo các ghi chép trong Kinh Thánh, phủ định Thuyết
Tiến hoá và các học thuyết hiện đại khác). TQ dịch là chủ nghĩa cơ yếu hoặc chủ
nghĩa nguyên giáo chỉ.
No comments:
Post a Comment