Hiểm
họa kinh tế Trung Quốc từ bong bóng bất động sản
Martin
Wolf - Financial Times
08/10/2021
https://baotiengdan.com/2021/10/08/hiem-hoa-kinh-te-trung-quoc-tu-bong-bong-bat-dong-san/
Những khó khăn của Evergrande, công ty bất động
sản nợ nần nhất thế giới, và giờ đây là "chúa chổm" Fantasia, sẽ
nghiêm trọng đe dọa kinh tế TQ tới mức nào? Câu trả lời không phải là TQ sẽ trải
qua một cuộc khủng hoảng tài chính khốc liệt. Mà sự thực là nền kinh tế phụ thuộc
vào đầu tư bất động sản phải chấm dứt. Sự thể đó đang đòi hỏi một điều chỉnh cực
lớn khiến giới cầm quyền phải đau đầu. Bởi lẽ, lấy gì đây để thay thế đầu tư
vào bất động sản hầu tạo ra nhu cầu?
Từ góc cạnh vĩ mô, đặc điểm quan trọng nhất của
nền kinh tế TQ là tiết kiệm siêu hạng. Năm 2010, tổng tiết kiệm quốc gia đạt
50% tổng sản phẩm quốc nội. Kể từ đó, tuy sụt giảm đôi chút, nhưng tiết kiệm
năm 2019 của cả nước vẫn là 44% GDP. Trong khi tiết kiệm của các hộ gia đình là
cực cao, với mức trung bình là 38% thu nhập khả dụng trong thời điểm 2010 -
2019, nhưng vẫn chưa đầy một nửa của tổng tiết kiệm quốc gia. Phần còn lại chủ
yếu là từ lợi nhuận lưu giữ của các công ty.
Muốn tránh khỏi tình trạng lao dốc tệ hại, đầu
tư cộng với xuất khẩu ròng phải tương xứng với tiết kiệm, khi kinh tế vận hành
sát cận tiềm năng sản lượng, Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, xuất khẩu
ròng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong GDP, bởi thế giới không còn chấp nhận thêm nữa.
Từ năm 2010 đến năm 2019 tổng đầu tư cố định đạt mức trung bình khoảng 43% GDP.
Điều đáng ngạc nhiên là con số này lại cao hơn 5 phần trăm, trong một thời kỳ
mà tăng trưởng suy giảm nhiều so với giữa năm 2000 và 2010. Trong khi đó, tăng
trưởng lại suy giảm thật nhiều. Sự kết hợp giữa đầu tư cao hơn với tăng trưởng
thấp hơn chứng tỏ lợi tức đầu tư đã giảm sụt đáng kể (một thể hiện trực tiếp của
tình trạng gia tăng“tỷ lệ sản lượng / vốn"). (Xem biểu đồ.)
Tuy nhiên, có những vấn đề to lớn hơn điều kể
trên. Một là đầu tư cao đi kèm với việc gia tăng nợ rất lớn, đặc biệt là của
các hộ gia đình và khu vực doanh nghiệp phi tài chính, khoảng 26 % - 61% GDP kể
từ quý đầu tiên của năm 2010 đến năm 2021, và sau đó là từ 118% - 159% của GDP.
Phần khác là sự lãng phí của các khoản đầu tư này. Khi đề cập tới sự cần thiết
phải chuyển sang đường hướng "tăng trưởng GDP chân chính thay vì thổi phồng",
Tập muốn nhấn mạnh tới một vấn đề trầm trọng.
Sự kết hợp giữa đầu tư cao và kém hiệu quả với
nợ tăng cao có liên quan mật thiết đến quy mô và tốc độ tăng trưởng nhanh chóng
của lĩnh vực bất động sản. Một bài nghiên cứu năm 2020 của Kenneth Rogoff và
Yuanchen Yang lập luận rằng, lĩnh vực bất động sản của TQ đóng góp 29% GDP vào
năm 2016. Trong số các nền kinh tế có thu nhập cao, chỉ có Tây Ban Nha trước
năm 2009 là phù hợp với mức này. Hơn nữa, gần 80% tác động này đến từ đầu tư,
trong khi khoảng một phần ba đầu tư đặc biệt cao của TQ là vào bất động sản.
Nhiều chỉ số mạnh mẽ đã chứng tỏ khoản đầu tư
này được thúc đẩy bởi giá cả không bền vững và đòn bẩy quá mức, đồng thời tạo
ra công suất dư thừa rất lớn, chẳng hạn như: tỷ lệ giá trên thu nhập ở Bắc
Kinh, Thượng Hải và Thẩm Quyến cao hơn nhiều so với các thành phố lớn khác trên
thế giới; tài sản nhà ở chiếm 78% tổng tài sản của TQ vào năm 2017, so với 35% ở
Mỹ; tỷ lệ nợ hộ gia đình đã tương đương với tỷ lệ nợ ở các nước có thu nhập
cao; tỷ lệ nhà bỏ trống và các biện pháp dư thừa công suất khác ở mức cao; và tỷ
lệ sở hữu nhà đã đạt 93% vào năm 2017. Hơn nữa, quá trình lập gia đình đã chậm
lại, dân số Tầu ngày càng già đi, với 60% đã thành dân đô thị. Tất cả những điều
này báo hiệu rằng, sự bùng nổ bất động sản phải kết thúc.
Vì nhà nước kiểm soát hệ thống tài chính, nên
TQ có thể ngăn chặn được một cuộc khủng hoảng tài chính. Giá nhà giảm nhiều và
tác động tiêu cực lớn đến tài sản và chi tiêu của hộ gia đình có thể xảy ra,
nhưng tránh được. Mối đe dọa là đầu tư vào tài sản sẽ sụp đổ. Điều này sẽ ảnh
hưởng tiêu cực lớn đến tài chính của chính quyền địa phương. Song trên hết, nó
sẽ để lại một lỗ hổng lớn về nhu cầu. Rogoff và Yang cho biết: “bất động sản mất
giá 20% có thể sẽ khiến GDP suy giảm 5%-10%, ngay cả trường hợp không có khuếch
đại từ khủng hoảng ngân hàng, hoặc ảnh hưởng quan trọng từ suy sụp thế chấp bất
đông sản”. Tình trạng có thể tồi tệ hơn thế.
Từ năm 2012 đến năm 2019, đầu tư đã đóng góp
40% vào nhu cầu tăng trưởng của Trung Quốc. Nếu đầu tư vào bất động sản sút giảm
mạnh, nó sẽ để lại một khoảng thiếu hụt lớn. Nhưng cuối cùng, chấp nhận điều chỉnh
đau thương này lại là điều mong đợi. Nó sẽ cải thiện phúc lợi cho người dân, bởi
xét cho cùng, xây dựng tài sản không cần thiết là một phí phạm tài nguyên. Việc
giảm tốc độ đầu tư vào bất động sản gần đây cũng là hệ quả tự nhiên của chính
sách “ba ranh giới đỏ”mà Bắc kinh đã áp đặt trên giới phát triển bất động sản từ
năm ngoái, bao gồm những giới hạn nghiêm ngặt đối với tỷ lệ nợ trên tài sản của
một công ty, đối với tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu, và đối với tỷ lệ tiền mặt
trên nợ ngắn hạn.
Chính sách hiện nay nên chuyển đầu tư sang hướng
tiêu thụ, và nhất là phải tránh mọi đầu tư phí phạm. Đường lối này đòi hỏi một
sự tái phân phối thu nhập cho các gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo kèm, cũng
như gia tăng tiêu dùng công cộng. Thay đổi như thế sẽ phù hợp với những công
kích gần đây nhằm vào đặc quyền của những kẻ giàu có. Muốn thế, cần có những cải
cách lớn, đặc biệt là hệ thống thuế má và cơ cấu chi tiêu công cộng. Mặt khác,
cũng nên rời khỏi bất động sản để chuyển đầu tư vào công cuộc tiết giảm phát thải
các-bon cao. Điều đó cũng sẽ đòi hỏi những thay đổi cực lớn về chính sách.
Khủng hoảng cũng là cơ hội. TQ nhận thức rõ là
bùng nổ đầu tư lớn vào bất động sản đã vượt xa giới hạn hợp lý. Nền kinh tế
đang cần những động lực khác để thúc đẩy nhu cầu. Vì TQ vẫn còn tương đối nghèo,
nên một tình trạng kinh tế thoái hóa kéo dài, như của Nhật Bản, là không cần
thiết, đặc biệt là trong lúc cần cải thiện phẩm chất của tăng trưởng. Những mô
hình dựa trên đầu tư lãng phí đã đến hồi kết thúc. Chúng phải được thay thế.
NGUỒN :
The economic threats from China’s real estate bubble
Property’s great investment boom has reached its limit — the
economy needs new drivers of demand
No comments:
Post a Comment