Trịnh
Lộc Nguyễn (Nguồn: RFA)
Jun 23, 2020
Ngày 12 Tháng Mười Hai,
2019, Malaysia đã nộp hồ sơ lên Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (CLCS) xin công
nhận thềm lục địa mở rộng theo Điều 76 của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
năm 1982 (UNCLOS), liên quan đến ranh giới thềm lục địa nằm ngoài 200 hải lý
tính từ đường cơ sở.
Sau khi Malaysia gửi đệ
trình lên CLCS, gần như tất cả các bên liên quan tới tranh chấp này đều gửi
công hàm để nhấn mạnh quan điểm của mình đối với đệ trình của Malaysia. Các nước
đã gửi công hàm liên quan tới đệ trình của Malaysia là Trung Quốc, Philippines,
Việt Nam và Indonesia. Ngoài Trung Quốc, các nước còn lại có những lập trường
tương tự khi viện dẫn phán quyết về Biển Đông năm 2016 của Tòa Trọng Tài trong
vụ Philippines kiện Trung Quốc, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết
tranh chấp tuân thủ theo luật pháp quốc tế.
Công hàm gửi Liên Hiệp Quốc của
Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia đầu
tiên phản ứng lại đệ trình của Malaysia; trong công hàm gửi tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc ký hiệu CML/14/2019 đề ngày 12 Tháng Mười Hai, 2019, Trung Quốc lập luận rằng
đệ trình của Malaysia sẽ xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán của Trung Quốc ở Biển Đông. Do đó, chính phủ Trung Quốc yêu cầu
CLCS không công nhận đệ trình của Malaysia theo điều 5(a) Phụ lục I của Quy Định
Về Thủ Tục của Ủy Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa.
Như đã biết, Trung Quốc
đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông bằng “đường chín đoạn.”
Trong công hàm của mình, một lần nữa Trung Quốc nhấn mạnh rằng căn cứ vào cơ sở
lịch sử, họ có chủ quyền đối với Biển Đông. Tuy nhiên, Tòa Trọng Tài Quốc Tế
năm 2016 đã đưa ra phán quyết rằng tuyên bố về quyền lịch sử của Trung Quốc đối
với Biển Đông không có cơ sở pháp lý xét theo luật quốc tế.
Công hàm gửi Liên Hiệp Quốc của
Philippines
Ngày 6 Tháng Ba, 2020,
Philippines đã gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc để đáp lại công hàm của Trung Quốc.
Trong công hàm của mình, Philippines lập luận rằng quan điểm của Trung Quốc
không phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS. Hơn nữa, công hàm của
Philippines cũng viện dẫn phán quyết về Biển Đông chống lại Trung Quốc năm 2016
của Tòa Trọng Tài, theo đó giải quyết vấn đề về quyền lịch sử và quy chế của
các cấu trúc trên biển.
Phán quyết này khẳng định
rằng bất kỳ tuyên bố nào dựa trên quyền lịch sử, hay những quyền chủ quyền và
quyền tài phán khác vượt quá giới hạn địa lý và giới hạn thực chất của các cấu
trúc trên biển theo quy định của UNCLOS, đều không có hiệu lực pháp lý.
Công hàm gửi Liên Hiệp Quốc của
Việt Nam
Sau công hàm của
Philippines, ngày 23 Tháng Ba, 2020, Việt Nam đã gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc
liên quan tới đệ trình thềm lục địa mở rộng của Malaysia. Việt Nam có lập trường
kiên định và vững vàng về tranh chấp này. Trong công hàm của mình, Việt Nam nhấn
mạnh ít nhất bốn điểm.
Công hàm của Việt
Nam gửi Liên Hiệp Quốc về Biển Đông hồi Tháng Tư, 2020. (Hình: Tuổi Trẻ)
Đầu tiên, Việt Nam phản đối
các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc được nêu ra trong công hàm của Trung Quốc.
Việt Nam lập luận rằng đó là sự vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền
và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông.
Thứ hai, Việt Nam nói rằng
nước này có nhiều bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của
mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.
Thứ ba, Việt Nam nhắc lại
rằng UNCLOS là cơ sở pháp lý duy nhất để giải quyết bất kỳ tranh chấp nào giữa
Việt Nam và Trung Quốc. Do đó, Việt Nam phản đối mọi lập luận không tuân thủ
theo UNLCOS.
Dù công hàm của Việt Nam
không nhắc đến phán quyết của PCA về Biển Đông một cách rõ ràng, song lập trường
của Việt Nam đã, đang và luôn luôn kiên định với tất cả những tài liệu mà Việt
Nam từng chuyển lên Liên Hiệp Quốc và đệ trình lên các cơ quan quốc tế có liên
quan.
Công hàm gửi Liên Hiệp Quốc của
Indonesia
Ngày 12 Tháng Sáu, Phái
Đoàn Thường Trực Indonesia tại Liên Hiệp Quốc đã gửi thư lưu hành số
148/POL-703/VI/20 tới Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc António Guterres để phản hồi
thư lưu hành số CML/46/2020 mà Trung Quốc gửi Liên Hiệp Quốc ngày 2 Tháng Sáu
liên quan vấn đề Biển Đông.
Trong thư này, Indonesia
đã tái khẳng định lập trường đối với vấn đề Biển Đông theo UNCLOS và phán quyết
của Tòa Trọng Tài Thường Trực ngày 12 Tháng Bảy, 2016.
Thư của Indonesia nhấn mạnh:
“Không có thực thể nào ở quần đảo Trường Sa được hưởng vùng đặc quyền kinh tế
(EEZ) hoặc thềm lục địa riêng, do đó, không có thực thể nào tại đây tạo ra vùng
chồng lấn với EEZ hoặc thềm lục địa của Indonesia;” “Không có quyền lịch sử nào
liên quan đến Trung Quốc tồn tại trong EEZ và thềm lục địa của Indonesia. Nếu
có bất kỳ quyền lịch sử nào tồn tại trước khi UNCLOS có hiệu lực, các quyền đó
đã được thay thế bởi các quy định của UNCLOS.”
Do đó, chính phủ
Indonesia không thấy có lý do pháp lý nào theo luật quốc tế, đặc biệt là
UNCLOS, để tiến hành đàm phán về phân định ranh giới trên biển với Trung Quốc
hoặc về bất kỳ vấn đề nào khác liên quan đến quyền lợi hoặc lợi ích hàng hải được
đưa ra trái với luật pháp quốc tế.
Phái Đoàn Thường Trực
Indonesia tại Liên Hiệp Quốc đã đề nghị lưu hành thư này tới tất cả các thành
viên của CLCS cũng như tất cả các thành viên UNCLOS và Liên Hiệp Quốc.
Tổng Thống
Indonesia Joko Widodo cho rằng “chính phủ Indonesia không thấy có lý do pháp lý
nào theo luật quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, để tiến hành đàm phán về phân định
ranh giới trên biển với Trung Quốc.” (Hình minh họa: Manman Dejeto/AFP via
Getty Images)
Trước đó, ngày 26 Tháng
Năm, Phái Đoàn Thường Trực Indonesia tại Liên Hiệp Quốc đã gửi thư lưu hành số
126/POL-703/V/20 lên Liên Hiệp Quốc liên quan tới đệ trình thềm lục địa mở rộng
của Malaysia. Trong công hàm của Indonesia gửi tới LHQ, lần đầu tiên kể từ khi
Tòa Trọng Tài ra phán quyết về Biển Đông năm 2016, trong đó nhấn mạnh ba điểm:
Một là, Indonesia tái khẳng
định rằng quốc gia này không phải là một bên tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông.
Hai là, Indonesia lưu ý rằng
lập trường của nước này liên quan tới quy chế pháp lý của các thực thể trên biển
như được đề cập trong công hàm năm 2010, được công nhận bởi phán quyết ngày 12
Tháng Bảy, 2016, của Tòa Trọng Tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS trong vụ
Philippines kiện Trung Quốc, theo đó không có bất kỳ thực thể nào thuộc quần đảo
Trường Sa được phép lấy làm căn cứ để tính EEZ hay thềm lục địa.
Ba là, Indonesia tái khẳng
định rằng bản đồ “đường chín đoạn” ngầm thể hiện yêu sách về chủ quyền lịch sử
là hoàn toàn thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và có mức độ nghiêm trọng tương đương
việc vi phạm UNCLOS. Quan điểm này cũng đã được công nhận bởi phán quyết ngày
12 Tháng Bảy, 2016, của Tòa Trọng Tài, trong đó nói rằng mọi quyền lịch sử mà
Trung Quốc có thể có đối với các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật đều
bị bác bỏ bởi giới hạn về vùng biển được xác định theo UNCLOS.
Năm 2016, sau khi Tòa Trọng
Tài đưa ra phán quyết, xảy ra vụ việc một tàu cá của Trung Quốc đánh bắt cá
trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, Indonesia khi đó đã gửi
công hàm phản đối ngoại giao tới Bắc Kinh trong đó lập luận rằng “đường chín đoạn”
là phi pháp xét theo luật quốc tế.
Một vụ việc tương tự lại
diễn ra vào đầu năm 2020, khi đó căng thẳng xảy ra giữa lực lượng thực thi pháp
luật của Indonesia với các tàu đánh cá trái phép được tàu Hải Cảnh hộ tống của
Trung Quốc đã tiến vào vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia ở Biển Bắc Natuna,
nơi Trung Quốc coi là khu vực nằm trong “đường chín đoạn.” Một lần nữa,
Indonesia kiên quyết phản đối Trung Quốc bằng cách gửi một công hàm ngoại giao
tới Bắc Kinh và tăng cường tuần tra quân sự tại khu vực.
ASEAN cần đoàn kết để chống lại
tham vọng sai trái của Trung Quốc
Liệu việc ASEAN đoàn kết
cùng ủng hộ Phán Quyết về Biển Đông của Tòa Trọng Tài có quan trọng trong luật
quốc tế? Trên thực tế, từ góc nhìn của luật quốc tế, việc bất kỳ quốc gia thành
viên nào của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) viện dẫn phán quyết của
Tòa Trọng Tài, cho dù là trong một công hàm chính thức, đều không làm gia tăng
tính pháp lý của pháp quyết đó. Tuy nhiên, điều này có thể làm gia tăng ảnh hưởng
và sức ép chính trị đối với bất kỳ bên liên quan nào, nhằm buộc các bên phải
tôn trọng luật quốc tế.
Về mặt lý thuyết, phán
quyết của Tòa Trọng Tài sẽ chỉ có tính ràng buộc đối với các bên có liên quan tới
vụ xét xử, bao gồm Philippines và Trung Quốc, cho dù Trung Quốc không tham gia
phiên tòa. Mặc dù, về phán quyết của Tòa Trọng Tài không có tính ràng buộc đối
với các nước khác có tuyên bố chủ quyền trong tranh chấp ở Biển Đông. Tuy
nhiên, nếu có nhiều các nước có tuyên bố chủ quyền trong tranh chấp ở Biển Đông
viện dẫn phán quyết của Tòa Trọng Tài về Biển Đông, ít nhất điều đó sẽ tạo ra sức
ép chính trị đối với Trung Quốc, buộc nước này phải hành xử phù hợp với luật quốc
tế, và tránh có các hành động phi pháp gây ra căng thẳng ở khu vực.
Do đó, các nước thành
viên ASEAN, nhất là các bên có liên quan tới tranh chấp Biển Đông gồm Việt Nam,
Philippines, Malaysia, Brunei, cần kiên quyết ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng
Tài năm 2016 để bảo đảm rằng luật pháp quốc tế là cơ sở duy nhất để giải quyết
tranh chấp này.
No comments:
Post a Comment