Sunday, July 8, 2018

BÁO CHÍ ĐÔNG ÂU HẬU CỘNG SẢN (Anh Khoa - Luật Khoa TC)





Posted on 22/07/201

Đầu những năm 1990 là giai đoạn của những thay đổi sâu sắc với các quốc gia Đông Âu sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Các quốc gia này bắt đầu đặt ra một kế hoạch lâu dài để duy trì các giá trị dân chủ trên toàn lãnh thổ. Thời điểm đó, nhiều học giả dân chủ Tây phương đã nhấn mạnh tầm quan trọng của phương tiện truyền thông nhằm củng cố thể chế dân chủ trong khu vực này. Như vậy, công chúng hy vọng rằng các phương tiện truyền thông “lề trái”, vốn vẫn hoạt động bí mật dưới chế độ độc tài, sẽ trở thành một lực lượng quan trọng góp phần cổ suý các giá trị dân chủ trên toàn khu vực.
Tuy nhiên, mọi chuyện không hề dễ dàng.

Tự do báo chí và dân chủ hóa: những bước phát triển ban đầu

Trong vài tháng đầu sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, các phương tiện truyền thông ở các quốc gia Đông Âu bắt đầu phát triển theo mô hình Tây phương: hướng tới tư nhân và đa dạng hóa, và tự chủ hơn về thông tin.

Slavko Splichai, giáo sư đại học Ljubljanam, Slovenia nhấn mạnh rằng ở hầu hết các nước cộng sản, luật báo chí đã được ban hành để cho phép một bộ phận tư nhân đầu tư vào và phá bỏ sự độc quyền của nhà nước. Hơn nữa, phương tiện báo chí cũng được tự do hóa hoàn toàn ngay sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ.

Năm 1990, các luật mới về tự do ngôn luận và thông tin được thông qua ở Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Czech và Slovakia), trong khi một số điều luật hình sự về “khiêu khích” và “lật đổ” cũng bị bãi bỏ.

Những bước đầu hướng tới tư nhân hoá và đa dạng hóa đã dẫn tới việc sáng tạo ra nhiều ấn phẩm và các chương trình phát thanh và truyền hình mới ở tất cả các nước trong khu vực, từ đó gia tăng một số lượng lớn các nhà báo chuyên nghiệp ở tất cả các lĩnh vực.

Tuy nhiên, bất chấp những thành công về dân chủ chính trị trong khu vực, những xu hướng về tự do và phát triển truyền thông đã không kéo dài sau những dấu hiệu lạc quan ban đầu. Trong năm 2008 cũng như gần đây, đa số hệ thống truyền thông ở các quốc gia Đông Âu vẫn bị đánh giá là “Bán tự do” hoặc “Không tự do”.

Quyền sở hữu và bàn tay chính phủ

Dưới thể chế dân chủ, nhiều cơ sở truyền thông đã được cổ phần và tư nhân hóa, thậm chí một số chính phủ đã thành lập các chương trình hỗ trợ báo chí nhằm phát triển theo đường lối của các nước phương Tây để phá bỏ độc quyền. Tuy nhiên, chính vấn đề quyền sở hữu đã ngăn cản những nỗ lực phát triển một hệ thống truyền thông đa dạng và tự do.

Hầu hết các chính phủ dân chủ trong khu vực đều nhận ra rằng các phương tiện truyền thông sẽ là một công cụ vô cùng lợi hại nếu nhà nước có thể kiểm soát nhằm định hướng dư luận. Đặc biệt, bởi cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 là những năm có nhiều bất ổn chính trị, các đảng phái dân chủ non trẻ phải kiểm soát báo chí vì chúng được xem là “cây đũa thần” và có khả năng thuyết phục công chúng để có thể tiến hành những cải cách như mong muốn.

Mặt khác, các phương tiện thông tin đại chúng độc lập được xem như là mối đe dọa nghiêm trọng vì sẽ ảnh hưởng đến khả năng của chính phủ mới khi muốn thông qua một đạo luật. Trong khu vực Đông Âu, một số chính phủ mới đã đi quá xa khi buộc tội báo chí đã làm suy yếu quá trình dân chủ hoá khi liên tiếp chỉ trích các chính sách hay đạo luật mới được đề ra ở quốc hội. Các chính phủ mới được bầu ra trong phần lớn các nước hậu cộng sản đã cố gắng sử dụng quỹ công hoặc các công cụ lập pháp để có thể kiểm soát và định hướng chính trị thông qua báo chí.

Các chính phủ mới ở Đông Âu có thể sở hữu một phần các tổ chức báo chí là do trong những năm 1990, khu vực này không có một xã hội dân sự phát triển để tranh giành ảnh hưởng với chính quyền. Các công ty phát thanh và truyền hình, mặc dù ở mức độ thấp hơn, cũng nằm trong sự ảnh hưởng của các tầng lớp lãnh đạo.

Chính phủ củng cố sự kiểm soát đối với các công ty truyền thông thông qua một số chính sách linh hoạt.

Ở Ba Lan, Hội đồng Phát thanh và Truyền hình Quốc gia (KRRiT) được thành lập để phân bổ và giám sát sóng vô tuyến. Theo Hiến pháp Ba Lan, phương tiện truyền thông phải là một cơ quan độc lập và không bị chính phủ can thiệp nhưng KRRiT đã được lập chỉ để duy trì hình ảnh tích cực của giới tinh hoa chính trị với công chúng.

Ở Slovakia, một phương pháp tương tự cũng được áp dụng để khẳng định quyền kiểm soát phương tiện truyền thông; trong khi luật pháp nhà nước định nghĩa từ “tự do và độc lập” của truyền thông rất mơ hồ. Từ đó, Quốc hội có thể sửa đổi nhiều lần để có thể thành lập một Ủy ban giám sát truyền hình và phát thanh.

Ở Hungary, Diễn đàn Dân chủ Hungary, đảng cầm quyền từ 1990 đến 2010, đã tận dụng nhiều phương pháp khác nhau để chống lại báo chí độc lập khi cáo buộc những phương tiện truyền thông còn giữ lại tàn dư cộng sản. Chính quyền dân chủ non trẻ này đã quốc hữu hóa các tờ báo độc lập cũng như lập ra hàng loạt các tờ báo mới, mặc dù không thuộc sở hữu nhà nước nhưng vẫn do những người ủng hộ liên minh cầm quyền kiểm soát

Thêm vào đó, có một ví dụ đặc biệt thú vị về ảnh hưởng của giới tinh hoa “lão làng” đến các phương tiện truyền thông ở Ba Lan, nơi có Giáo hội Công giáo – một lực lượng mạnh mẽ trong phong trào dân chủ hóa của Ba Lan, nhưng cũng là một thành phần bảo thủ. Giữa năm 1989, Giáo hội thành lập một kênh truyền hình riêng để thúc đẩy các nghị trình của mình. Giáo hội gây áp lực lên một số cơ sở truyền thông độc lập bằng cách thúc đẩy việc thông qua các luật lệ chống lại chương trình tục tĩu và khiêu dâm. Bên cạnh đó, họ cũng thường cáo buộc các nhà báo về việc “phỉ báng những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của quốc gia”.

Ngay cả trong trường hợp nhà nước không thể trực tiếp kiểm soát báo chí hay truyền hình, hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến nội dung phát sóng bằng cách thành lập các cơ quan kiểm duyệt, một số yếu tố khác đã ngăn cản việc tư hữu hoá truyền thông ở các nước trong khu vực.

Tình trạng kinh tế của các quốc gia hậu cộng sản thường rất bấp bênh, khiến nhiều công ty truyền thông không thể duy trì được sự độc lập của mình. Chính phủ cũng làm tình hình xấu thêm khi áp dụng các khoản thuế bổ sung đối với các công ty truyền thông mới nổi như trường hợp ở Albania, Bulgaria và Slovakia. Trong khi đó, một số chính phủ tài trợ cho các công ty truyền thông non trẻ để từ đó có thể kiểm soát được họ – đơn cử là Slovakia, nơi có bốn đài phát thanh quốc gia được nhà nước tài trợ.

Trong tình trạng tài chính thiếu hụt, các cơ quan báo chí có hai lựa chọn: xin hỗ trợ từ nhà nước và mất quyền tự chủ, hoặc tìm kiếm các nhà đầu tư Tây phương.

Tuy nhiên, lựa chọn thứ hai cũng không phải là một cách hay, bởi vì các công ty truyền thông sẽ phụ thuộc vào các tập đoàn thương mại Tây phương và hạn chế nguồn nhân lực, tính đa dạng, và sự độc lập về các bản tin. Hơn nữa, bởi vì các tập đoàn nước ngoài chỉ hoạt động để kiếm lời, các tờ báo thông thường phải đưa ra các tin tức đứng về phía đảng cầm quyền và các chính sách của nhà nước. Điều này dĩ nhiên làm suy yếu khả năng của báo chí khi không thể giữ vững lập trường khách quan.

*
*

Posted on 23/06/2018

Trong quá trình chuyển đổi từ chế độ độc tài sang dân chủ, hầu hết các Đông Âu đã cố gắng xây dựng một hệ thống truyền thông giống các nước dân chủ phương Tây. Tuy nhiên, do những biến động chính trị đầu những năm 1990, các chính trị gia đã không thể có được sự đồng thuận trong chính phủ để hình thành các cơ quan truyền thông độc lập.

Andrew K. Milton, Giáo sư Sử học, Đại học Oregon giải thích rằng thái độ của các chính phủ mới còn khá thận trọng với các cải cách, nhất là với báo chí, vì thế thể chế dân chủ chỉ cho phép cải cách một phần, trong khi vẫn giữ nguyên những chính sách của chế độ cũ. Hơn nữa, cách lấy tin của các phóng viên vẫn theo cách mà họ được định hướng dưới thời cộng sản và vẫn tiếp tục viết báo theo cách cũ. Kết quả là về mặt cơ bản các nước hậu cộng sản ở khu vực này đã cố gắng học hỏi và mô phỏng cải cách theo mô hình của các phương tiện truyền thông phương Tây nhưng triết học Marx-Lenin trong truyền thông Đông Âu vẫn tiếp tục tồn tại.

Vị giáo sư Sử học phân tích rằng khi chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ, hậu quả để lại là cấu trúc chính trị đã lỗi thời và khó có thể tiến hành cải cách ngay. Do đó, hầu hết các nước trong khu vực Đông Âu vẫn dùng Bộ Văn hoá để tiếp tục giám sát các phương tiện truyền thông đại chúng; mặc dù sự kiểm soát này dần trở nên linh hoạt hơn và ít định hướng chính trị hơn.

Trớ trêu thay, bầu không khí dân chủ hoá trong khu vực vẫn cho phép các quan chức chính phủ mới tiếp tục giám sát báo chí và truyền hình để có thể bảo vệ quyền lực và tấn công phe đối lập và các cuộc biểu tình.

Thực tế là các chính phủ dân chủ cũng phải vật lộn để tu chính hay viết lại hiến pháp. Tiến trình này diễn ra khá chậm chạp do các phe phái khó thoả hiệp được với nhau.

Trường hợp ở Cộng Hòa Séc là một ví dụ. Mô hình chính phủ theo hiến pháp mới không có nhiều khác biệt so với chế độ cũ, bao gồm việc tổ chức lại các phương tiện truyền thông.
Ở Ba Lan, luật truyền thông mới không được chính phủ thông qua và đình trệ cho đến năm 1992. Thêm vào đó, các nhà báo cảm thấy không chắc chắn về quyền và nghĩa vụ mới sẽ ra sao hoặc nên hành xử như thế nào trong thời điểm hiện tại.

Ngoài ra, thái độ của chính phủ cũ đối với các phương tiện truyền thông cũng không thể thay đổi một sớm một chiều.

Công chức và lãnh đạo chính phủ thường không quen với sự tò mò của cánh báo chí và không đồng ý từ bỏ sự kiểm duyệt của nhà nước lên truyền thông. Kết quả là các nhà báo rất khó khăn trong việc thu thập thông tin cũng như đưa tin đa chiều, đặc biệt là về những chính sách mới của chính phủ mà họ dự định phê bình và phổ biến đến công chúng.

Có rất ít công cụ pháp lý có sẵn để các nhà báo có thể tiếp cận với cơ quan nhà nước hoặc để chứng thực nguồn thông tin chính thống. Chẳng hạn, ở Cộng hòa Séc, vào năm 1995, chính phủ gần như đã thông qua một đạo luật nhằm loại bỏ hoàn toàn quyền bảo vệ nguồn tin của các nhà báo. Mặc dù thất bại ở phút chót, dự luật này cũng đại diện cho thái độ không tin tưởng của nhiều chính phủ ở khu vực Đông Âu đối với phương tiện truyền thông độc lập vào thời điểm đó.

Hơn nữa, ngay cả khi các nhà báo có thể tiếp cận được nguồn thông tin lề trái và cố gắng phân phối đến với người dân nhưng những tin này thường bị chặn bởi luật kiểm duyệt và chống phỉ báng. Trong khi hầu hết các nước trong khu vực cố gắng loại bỏ hầu hết các luật lệ về những hình thức kiểm duyệt trong hiến pháp thì chính phủ mới của Cộng hoà Séc ngày càng nhận ra rằng các phương tiện truyền thông đang dần trở thành một mối đe dọa, kéo theo những chỉ trích đầy cay nghiệt nhắm về phía họ.

Vì thế, khi nhà nước dân chủ không thể công khai kiểm soát các phương tiện truyền thông bằng các đạo luật về quyền sở hữu hoặc kiểm duyệt, lãnh đạo thường sử dụng luật chống phỉ báng. Một số đã được thông qua để có thể trừng phạt các nhà báo dám công khai phê bình các quan chức.

Ví như, ở Ba Lan, ba năm sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, chính phủ mới đã ban hành một đạo luật trao quyền kiểm soát các kênh truyền hình và phát thanh cho chính phủ. Đạo luật này cũng yêu cầu các đài truyền hình và phát thanh phải duy trì “các giá trị Cơ đốc giáo làm cơ sở, đồng thời chấp nhận các nguyên tắc đạo đức toàn dân và các lợi ích quan trọng của nhà nước Ba Lan” mà không giải thích rõ ràng những nguyên tắc và giá trị này là gì.

Sự không rõ ràng của đạo luật này cho phép các quan chức chính phủ tiến hành các cuộc điều tra để từ đó có thể nó ngăn chặn và kiểm duyệt hàng loạt các tin tức phát sóng không có lợi cho hình ảnh của quan chức.

Ở Cộng hoà Séc, nhà nước tuy loại bỏ những điều khoản liên quan đến các tội “phản động” trong Bộ luật Hình sự nhưng vẫn giữ các điều khoản ngăn cấm phỉ báng chính quyền.
Tóm lại, văn hoá chính trị cộng sản vẫn tiếp tục tồn tại trong cách quản lý và kiểm duyệt của các nhà nước mới trong thời kỳ dân chủ. Những cố gắng của nhiều nhà xuất bản và toà báo mô phỏng theo một mô hình truyền thông phương Tây tiếp tục bị ngăn cản.

*
*
Posted on 02/07/2018

Ngày nay, nhiều người sống ở các nước Đông Âu đã không còn tin tưởng vào giới truyền thông. Điều này phần lớn là do các hành vi và thái độ của các phóng viên trong những năm đầu sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, ảnh hưởng đến cách làm việc của các nhà báo trong những năm sau này.

Ngay khi chuyển đổi thể chế, các nhà báo trong khu vực gặp nhiều khó khăn để định hình và xác định những giá trị sẽ tạo thành một nền báo chí tự do, cũng như cách thực thi những giá trị đó. Việc thiếu hiểu biết về vai trò của nhà báo dưới chế độ dân chủ là một trở ngại.
Thêm vào đó, tính chuyên nghiệp của báo chí đã không tồn tại dưới chế độ cũ, nên ngay cả khi chế độ kiểm duyệt đã bị xoá bỏ hoặc ít nhất suy giảm vào đầu những năm 1990, các nhà báo vẫn không thể tạo ra một nét đặc biệt chuyên nghiệp tương tự như ở các nước dân chủ phương Tây. Kết quả là các phương tiện truyền thông không thể trở thành một nguồn tin đáng tin cậy cho công chúng.

Mặc dù số lượng các phương tiện truyền thông, cả báo in lẫn phát thanh – truyền hình, tăng lên đáng kể khi các nước cộng sản trở thành dân chủ, điều này không nhất thiết là một dấu hiệu khả quan. Sự bùng nổ về số lượng tạo ra rất nhiều phóng viên không được đào tạo chuyên nghiệp. Tuy một số trường đại học bắt đầu dạy và phát triển các ngành báo chí vào cuối những năm 1990 nhưng hiệu quả của chúng trong việc đào tạo các nhà báo dưới chế độ mới rất hạn chế. Những trường đại học này có nhiều chương trình học khác nhau và không có một phương pháp thống nhất cho hệ thống báo chí của cả nước.

Hơn nữa, những tổ chức báo chí chuyên nghiệp tồn tại nhưng thiếu tổ chức và không có bất kỳ một quy định nào về đạo đức và vai trò thực tiễn của nhà báo. Ngay cả khi các tổ chức này đã cố gắng đề ra các nguyên tắc báo chí nhưng vẫn không thể tiến hành mô phỏng được theo các nước dân chủ Tây phương. Ví dụ, hai hiệp hội báo chí của Ba Lan đã không thể thực thi được các quy tắc đạo đức của nền báo chí mới bởi vì các thành viên và nhà báo đã không tham gia một cách nghiêm túc.

Kết quả của việc thiếu đào tạo chuyên nghiệp là các nhà báo không có các kỹ năng cần thiết để đưa tin hiệu quả và giải quyết các câu hỏi khó khăn trong quá trình điều tra. Các nhà báo thường viết những tin chưa được nghiên cứu đầy đủ, thiếu khách quan và không phản ánh thực tế về những gì đang xảy ra.

Thực tế, ở các nước Đông Âu, cánh báo chí đưa tin về những vấn đề chính trị không có kinh nghiệm để trả lời và suy xét những nghi vấn về nhà nước. Có nghĩa là hầu hết các nhà báo đã không có những thông tin cần thiết  để cung cấp cho công chúng để từ đó công chúng có thể tự đánh giá các chính sách của chính phủ. Hầu hết các bài báo hoặc là ủng hộ các chính sách của chính phủ hoặc mù quáng chỉ trích các quan chức một cách không suy xét, trong khi các tin tức được điều tra toàn diện và đầy đủ là rất hiếm có.

Sự chia rẽ ý thức hệ giữa các nhà báo cũ – nghĩa là những người đã vào nghề trước khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ – và các nhà báo mới tạo ra hai hình thức đưa tin. Các nhà báo lớn tuổi thường từ chối suy xét hay đặt ra nghi vấn với  những chính sách hay sự thật về chính phủ. Ngược lại, các nhà báo mới và trẻ hơn không phải lúc nào cũng chấp nhận tất cả các thông tin được chính phủ cung cấp, nhưng họ có xu hướng xem bản thân là nhà bình luận, phê bình và phân tích hơn là phóng viên. Điều này đã dẫn đến sự lập lờ của các bài báo đưa tin và các bài phân tích và bình luận, từ đó đã làm giảm độ tin cậy của các nhà báo trong mắt công chúng. Ngoài ra, các bản tin của các nhà báo trẻ tuổi – đặc biệt là ở Hungary, Romania, Tiệp Khắc, và các nước cộng hòa non trẻ- thường sử dụng ngôn ngữ phẫn nộ và thô tục, và làm giảm độ tin cậy của các thông tin. 

Việc chỉ trích các chính trị gia bằng những ngôn từ không phù hợp trong các bài báo đã trở thành một cái cớ cho chính phủ phản công. Tại Hungary, đầu những năm 1990, chính phủ lấy cớ đó mà tố cáo báo chí là không khách quan và đáng tin cậy. Tầng lớp tinh hoa thậm chí còn cáo buộc các phương tiện truyền thông về những thái độ quá khích và liên tiếp chống lại cải cách của nhà nước. Các bản tin thiếu chuyên nghiệp cũng khiến cho các nhà báo dễ bị tổn thương hơn trước nguy cơ bị buộc tội phỉ báng, đặc biệt là khi các quốc gia hậu cộng sản trong khu vực bắt đầu áp dụng lại luật chống phỉ báng với mức độ kiểm duyệt ngày càng tăng.

Các nhà báo đưa tin về các vấn đề chính trị thường bị lôi kéo vào chính trường, thậm chí còn nắm giữ chức vụ quan trọng – đơn cử như Vaclav Havel, Jiri Dienstbier, Václav Klaus và Rita Klimova tại Cộng hòa Czech; Adam Michnik ở Ba Lan và Nikolle Lesi ở Albania. Từ đó, có thể thấy rõ bản chất phụ thuộc lẫn nhau giữa các phương tin truyền thông và giới tinh hoa ở các nước Đông Âu.

Cuối cùng, sau sự sụp đổ của chế độ cộng sản, các nhà báo không thể thiết lập một khuôn khổ chuyên nghiệp có thể giúp đưa tin một cách khách quan và toàn diện về các chính sách của chính phủ. Sự thiếu chuyên nghiệp đã làm giảm hiệu quả truyền thông, khiến nó không thể đóng được vai trò đúng mức trong các cuộc thảo luận dân chủ.

------------

Tài liệu tham khảo:
Bernhard, Michael. “Civil Society and Democratic Transition in East Central Europe.” Political Science Quarterly108.2 (1993): 307-326.

Freedom in the World Comparative and Historical Data. “Freedom in the World Country Ratings, 1973-2009.” Freedom House. http://www.freedomhouse.org/template.cfm?page=439  (accessed January 18, 2018).

Freedom of the Press Historical Data. “Freedom of the Press: Central and Eastern Europe/Former Soviet Union.” Freedom House. http://www.freedomhouse.org/template.cfm?page=274  (accessed January 18, 2018).

Goban-Klas, Tomasz. “Politics versus the Media in Poland: A Game without Rules.” In Post-Communism and the Media in Eastern Europe, ed. Patrick H. O’Neil, 24-41. London: Frank Cass and Co. Ltd, 1997.

Gross, Peter. Entangled Evolutions: Media and Democratization in Eastern Europe. Washington: Woodrow Wilson Center Press, 2002.

Gurevitch, Michael and Blumler, Jay G. “Political Communication Systems and Democratic Values.” In Democracy and the Mass Media, ed. Judith Lichtenberg, 269-289. Cambridge: Cambridge University Press, 1990.

Jakubowicz, Karol. “Media Within and Without the State: Press Freedom in Eastern Europe.” Journal of Communication 45 (1995): 125-139.

Jakubowicz, Karol and Miklós Sükösd. “Twelve Concepts Regarding Media System Evolution and Democratization in Post-Communist Societies.” In Finding the Right Place on the Map: Central and Eastern European Media Change in a Global Perspective, ed. Karol Jakubowicz and Miklós Sükösd, 9-40. Chicago: Chicago University Press, 2009

Kaldor, Mary and Ivan Vejvoda. “Democratization in Central and East European Countries.” International Affairs73.1 (1997): 59-82.

Kettle, Steve. “The Development of the Czech Media since the Fall of Communism.” In Post-Communism and the Media in Eastern Europe, ed. Patrick H. O’Neil, 42-60. London: Frank Cass and Co. Ltd, 1997.

Lánczi, András and Patrick H. O’Neil. “Pluralization and the Politics of Media Change in Hungary.” In Post-Communism and the Media in Eastern Europe, ed. Patrick H. O’Neil, 82-101. London: Frank Cass and Co. Ltd, 1997.

Man Chan, Joseph. “Media, Democracy and Globalisation: A Comparative Framework.” The Public 8.4 (2001): 103-118.

Milton, Andrew K. “New Media Reform in Eastern Europe: A Cross-National Comparison.” In Post-Communism and the Media in Eastern Europe, ed. Patrick H. O’Neil, 7-23. London: Frank Cass and Co. Ltd, 1997.

Norris, Pippa. “The role of the free press in promoting democratization, good governance, and human development” (paper presented at the Annual National Conference of the Midwest Political Science Association, Chicago, 20-22 April 2007).

O’Neil, Patrick. H. “Introduction: Media Reform and Democratization in Eastern Europe.” In Post-Communism and the Media in Eastern Europe, ed. Patrick H. O’Neil, 1-6. London: Frank Cass and Co. Ltd, 1997.

Price, Monroe. “Media Transitions in the Rear-View Mirror: Some Reflections.” International Journal of Politics, Culture and Society 22:4 (2009): 485-496.

Sachs, Natan. “Freedom of the Press, Democracy & Democratization” (paper presented at the Annual National Conference of the Midwest Political Science Association, Chicago, 20-April 22, 2007).

Sen, Amartya. Development as Freedom. New York: Anchor Books, 1999.

Školkay, Andrej. “Journalists, Political Elites and the Post-Communist Public: The Case of Slovakia.” In Post-Communism and the Media in Eastern Europe, ed. Patrick H. O’Neil, 61-81. London: Frank Cass and Co. Ltd, 1997.

Splichal, Slavko. “Imitative Revolutions: Changes in the Media and Journalism in East-Central Europe.” The Public 8.4 (2001): 31-56










No comments: