Phép
thử cho chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam
Tác giả: Huỳnh Tâm Sáng
26/04/2022
https://nghiencuuquocte.org/2022/04/26/phep-thu-cho-chinh-sach-quoc-phong-bon-khong-cua-viet-nam/
Cuộc chiến tại
Ukraine đặt Hà Nội vào thế khó trong quan hệ giữa Nga và Mỹ.
Tranh cãi đã dấy lên liên quan đến phản ứng của
Việt Nam sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin phát động cuộc xâm lược Ukraine
vào tháng 2. Hà Nội chọn cách không
gọi "chiến dịch quân sự đặc biệt" của ông Putin tại
Ukraine là "xâm lược", bỏ phiếu trắng trong nghị quyết đầu tiên của
Liên Hợp Quốc hôm 2/3 nhằm lên án Moscow tấn công quân sự Kiev, kêu
gọi các bên liên quan kiềm chế và tiếp tục bỏ phiếu chống đối
với nghị quyết đình chỉ tư cách thành viên của Nga tại Hội đồng Nhân quyền Liên
Hợp Quốc hôm 7/4.
Dù vậy, giới quan sát hay các chuyên gia đã có
thời gian dài nghiên cứu chính sách đối ngoại Việt Nam có thể không ngạc nhiên
trước phản ứng "nước đôi" của Hà Nội trong vấn đề Ukraine. Việc theo
đuổi một lập trường thận trọng, tránh mắc sai lầm trước các cuộc khủng hoảng quốc
tế là đặc điểm điển hình trong chính sách đối ngoại Việt Nam. Lần này, Hà Nội tỏ
ra dè dặt khi bày tỏ quan điểm về cuộc tiến công của Nga ở Ukraine, cố gắng tạo
thế cân bằng trong quan hệ giữa Nga và Mỹ. Đối với Việt Nam, Moscow là "đối
tác chiến lược toàn diện", trong khi Washington là đối tác an ninh ngày
càng quan trọng ở khu vực. Trong bối cảnh Ukraine dần có xu hướng liên kết chặt
chẽ hơn với Mỹ, Việt Nam muốn tránh bị cuốn vào vòng xoáy của chính trị cường
quyền, thông qua việc không ủng hộ Moscow hay Kiev. Vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh,
Hà Nội từng là nạn nhân của các yếu tố địa chính trị và đã phải trả giá đắt khi
chọn phe trong tam giác Washington – Moscow – Bắc Kinh.
Trên thực tế, Nga và Mỹ đóng vai trò thiết yếu
trong hoạch định chính sách đối ngoại và định hướng tư duy quốc phòng của Việt
Nam. Hà Nội cần Nga vừa để đảm bảo hoạt động trang bị vũ khí thường xuyên, vừa
nhằm củng cố quan
hệ hữu nghị truyền thống giữa hai bên – vốn đã được "thử lửa"
trong thời điểm Việt Nam nhận viện trợ về cả ngoại giao lẫn quân sự từ Liên Xô
trước đây. Nga là nước đầu tiên thiết lập quan hệ "đối tác chiến lược"
với Việt Nam vào năm 2001. Hiện tại, Moscow đã trở thành "đối tác chiến lược
toàn diện" của Hà Nội, bên cạnh Trung Quốc và Ấn Độ, đồng thời là quốc
gia dẫn đầu trong nỗ lực thăm dò và khai thác dầu khí với Việt Nam
trên Biển Đông.
Trong khi đó, Việt Nam rất coi trọng mối quan
hệ phát triển nhanh chóng với Mỹ trên khía cạnh kinh tế và quốc phòng.
Washington đã nhiều lần bày tỏ mong muốn nâng tầm quan hệ song phương lên
"đối tác chiến lược", ưu
tiên lợi ích an ninh thay vì chú trọng vào khác biệt về ý thức hệ
với Hà Nội. Với nỗ lực vun đắp từ phía Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực an
ninh hàng hải, quan hệ Việt – Mỹ có thể đóng vai trò như chiến lược
ngăn chặn áp dụng với Trung Quốc, phát đi thông điệp cảnh báo khéo léo đến giới
lãnh đạo Bắc Kinh về các tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước trên Biển Đông.
Trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam, vai
trò của Mỹ và Nga càng quan trọng hơn khi Hà Nội đang đối mặt với một Bắc Kinh
ngày càng hung hăng trên biển. Washington đã liên tục ngỏ ý hỗ
trợ Việt Nam về ngoại giao và an ninh, nhằm chống lại hành vi cưỡng
ép của Trung Quốc ở các vùng biển tranh chấp. Trong khi đó, Moscow cũng âm
thầm ủng hộ Việt Nam thông qua nỗ lực kiên trì hợp tác trong các dự
án dầu khí với Hà Nội ngay tại những khu vực này.
Thông qua việc theo đuổi chiến lược "can
dự đa hướng" (omni-directional engagement), Việt Nam cố gắng duy trì và
tăng cường quan hệ với cả các đối tác cũ lẫn mới. Nỗ lực đa dạng hóa quan hệ với
các nước láng giềng, các đồng minh ngoại giao truyền thống, các quốc gia trong
khu vực, các nước lớn và một số cường quốc tầm trung giúp Việt Nam tránh
"bỏ tất cả trứng vào cùng một giỏ." Kiên định với nguyên tắc độc lập
tự chủ, Hà Nội tái
khẳng định chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá trong hoạt động đối
ngoại. Thay vì chọn phe, Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh cam
kết "hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển" trong
quan hệ với các quốc gia ở khu vực và trên thế giới.
Dường như việc "đi dây" phần nào hiệu
quả trong quan hệ giữa Washington và Moscow thời gian qua đã hình thành tâm lý
chủ quan từ phía Hà Nội. Tuy nhiên, với Việt Nam, nỗ lực đảm bảo sự tự chủ chiến
lược, đồng thời duy trì lập
trường "mơ hồ" đối với cuộc chiến khốc liệt của Nga
ở Ukraine nhiều khả năng không thể kéo dài lâu.
Trên khía cạnh an ninh quốc tế, các quốc gia
có khuynh hướng rơi vào tình thế "tiến thoái lưỡng nan" (dilemma) khi
muốn đồng thời theo đuổi lợi ích mang tính thực dụng và các nguyên tắc quốc tế.
Đối với Việt Nam, tư duy thực dụng đã được cụ thể hoá trong chính sách quốc
phòng "bốn
không" của Hà Nội, đó là : Không tham gia liên minh quân sự ;
không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ
quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác ; không sử dụng
vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế [tác giả nhấn mạnh].
Đối với cuộc khủng hoảng tại Ukraine, Bộ Ngoại
giao Việt Nam đã kêu
gọi các bên liên quan "[kiềm chế] sử dụng vũ lực" và
"[tìm kiếm] một giải pháp hòa bình, đóng góp vào việc duy trì hòa bình, an
ninh, ổn định và hợp tác ở khu vực và trên thế giới". Trong đó, Hà Nội nhấn
mạnh sự cần thiết phải tuân thủ Hiến chương Liên Hợp Quốc và "các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế". Trên bình diện chung, tuyên bố chính thức của
Việt Nam mang hàm
ý chỉ trích những hành động từ phía Nga do Moscow đã vi phạm các
điều khoản của bản Hiến chương. Đối với các nhà lãnh đạo ở Hà Nội, lập trường
chính trị nói trên phù hợp với những nguyên tắc mà Việt Nam theo đuổi trong
chính sách đối ngoại.
Câu hỏi đặt ra là : Việt Nam có thể nỗ lực đến
đâu khi muốn "đi dây" giữa Washington và Moscow, trong khi vẫn đảm bảo
lợi ích an ninh trên trường quốc tế ? Lời giải phụ thuộc vào khả năng của Hà Nội
trong việc nâng cao sức mạnh tổng thể của quốc gia, với các trụ cột dựa trên
"một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh, cùng với sự mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế", như Nghị
quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI) Đảng cộng sản
Việt Nam vào tháng 5-1988 đã khẳng
định.
Khả năng phát huy hiệu quả giá trị chiến lược
đóng vai trò quan trọng giúp Việt Nam củng cố vị thế quốc tế, nhất là trong
toan tính của các nước lớn. Đối với các trung cường và đặc biệt là những nước
nhỏ, lựa chọn liên minh với một cường quốc nhằm chống lại một cường quốc khác
không phải là chiến lược khôn ngoan, thậm chí còn tiềm ẩn nhiều mối đe
dọa đối với an ninh quốc gia. Trong trường hợp của Việt Nam, khả năng ứng
phó linh hoạt và chủ động trong các hoạt động đối ngoại giữa bối cảnh cạnh
tranh chiến lược toàn cầu đang trước thử thách lớn.
Huỳnh Tâm Sáng
Quan điểm trong bài viết là của riêng tác giả, không
đại diện cho cơ quan mà tác giả đang làm việc hay cộng tác.
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được đăng
trên The
Interpreter.
No comments:
Post a Comment