Từ “13 lý do” đến MV Sơn Tùng: Tự tử, sản phẩm nghệ thuật hay
văn hóa kiểm duyệt?
Việc cấm đoán có thể
trở thành con dao hai lưỡi.
Tranh cãi về MV (music video) mới nhất của ca
sĩ Sơn Tùng M-TP tiếp tục cho chúng ta thấy một xã hội Việt Nam còn rất nhạy cảm,
nhưng bao giờ cũng phải viện dẫn đến kiểm duyệt, tự ngăn cản cơ hội để mình lớn
lên.
Bài viết này sẽ không tham gia tranh cãi trực
diện về câu chuyện có nên cấm đoán MV của anh chàng ca sĩ này hay không, và thật
ra thì phía cơ quan phát ngôn của Chính phủ Việt Nam cũng đã yêu cầu dỡ bỏ sản
phẩm này.
Thay vào đó, chúng ta cùng tìm hiểu xem việc sử
dụng và mô tả hình ảnh tự sát trong các tác phẩm nghệ thuật đại chúng như âm nhạc,
phim ảnh, hội họa hay thơ ca có thật sự là nguồn gốc của hiện tượng “tự tử lây
nhiễm” (suicide contagion)?
***
Điểm trước tiên mà người viết ghi nhận là việc
sử dụng hay mô tả hình ảnh tự sát không đúng cách trong các sản phẩm nghệ thuật
(cũng như báo chí) có những tác động nhất định đến một bộ phận những người tiêu
thụ thông tin giải trí.
Trong giới học thuật, hiện tượng này được biết
đến nhiều nhất với tên gọi “Werther effect”. [1]
“Werther effect” là tên gọi mà báo chí Đức đặt
ra vì họ cho rằng ra tỉ lệ tự tử tại quốc gia này gia tăng sau khi tác phẩm
“The Sorrows of Young Werther” (Nỗi đau của chàng Werther) của đại thi hào
Johann Wolfgang von Goethe được xuất bản vào năm 1774.
Nếu tóm tắt, cốt truyện không thật sự quá nổi
bật so với sự phức tạp của văn học hiện đại.
“The Sorrows of Young
Werther” kể về một chàng thanh niên trẻ vướng vào một mối tình tay ba. Qua diễn
biến của câu chuyện, Werther đã không thể nghiêng về tư duy lý tính và quyết định
dựa theo lẽ thường của bản thân. Anh tự sát vì không thể quên đi người phụ nữ
mà anh yêu.
Tác phẩm này bị nhiều chính phủ lo ngại và bị
cấm xuất bản tại một số quốc gia. Tuy nhiên, cho đến nay, “The Sorrows of Young
Werther” vẫn còn được xem là tác phẩm kinh điển của văn học Đức, và hiện đang
được nghiên cứu, giảng dạy ở các cấp học tại quốc gia này.
Một số nghiên cứu ủng hộ việc phòng tránh
“Werther effect” (hiện nay bắt đầu được gọi là “suicide contagion”), được đăng
tải trên các tạp chí tâm thần học, [2] và thậm chí là báo cáo của Tổ chức Y tế
Thế giới. [3] Các nghiên cứu này thể hiện niềm tin về mối liên hệ giữa các tác
phẩm nghệ thuật và khả năng tự sát trong trong các nhóm khán giả dễ tổn thương.
Tuy nhiên, con số chính xác và sự liên kết giữa hai hiện tượng chưa bao giờ được
định lượng hóa chắc chắn.
Thông thường, những báo cáo này chỉ đề xuất rằng
quy trình sản xuất, mô tả và sử dụng hình ảnh tự sát trong các sản phẩm văn hóa
cần sự tham vấn chuyên nghiệp từ các đội ngũ chuyên gia y tế. Song những quy định
pháp lý hạn chế cứng thì ít khi được đề xuất.
Mặt khác, cũng có nhiều nghiên cứu đặt dấu hỏi
cho mối quan hệ nhân quả giữa các sản phẩm văn hóa có hàm chứa hình ảnh tự sát,
so với hành vi tự sát thực tế trong xã hội.
Một trong những nghiên cứu chỉ ra điểm yếu
trong giả định “tự sát bắt chước” xuất hiện đầu tiên với tác giả Emile
Durkheim. [4]
Trong quyển sách “On suicide” (Bàn về tự sát)
xuất bản vào năm 1897, Durkheim nhìn nhận rằng các sản phẩm văn hóa nói về tự
sát thật ra không làm thay đổi quá nhiều các vụ tự sát hay tỷ lệ tự sát thường
niên. Ông đưa ra quan sát: Những người được cho là tự sát vì bắt chước, thật
ra đã sẵn mong muốn giã từ cuộc sống rồi.
Cho đến thời kỳ hiện đại, và đặc biệt là sau
khi sản phẩm phim truyền hình gây tiếng vang của Netflix có tên gọi “13 reasons
why” (13 lý do) được trình chiếu, hàng loạt các nghiên cứu định lượng đã chỉ ra
rằng mối liên hệ giữa sản phẩm truyền hình này về tỷ lệ tự sát của đối tượng thật
ra không mạnh mẽ và chắc chắn như người ta tưởng tượng. [5]
Một số nghiên cứu công phu, như của Trung tâm
về Truyền thông và Phát triển Con người của trường Đại học Northwestern thực hiện
(với lượng mẫu là hơn năm nghìn người ở năm quốc gia thuộc ba châu lục) thậm
chí cho thấy mặt tích cực của bộ phim “13 reasons why”. [6]
Một trong số đó, theo các nhà nghiên cứu, là
việc bộ phim tạo ra nhiều thảo luận về bạo lực học đường, tự sát, và sức khỏe
tinh thần giữa các bậc phụ huynh và trẻ em từ 13 đến 22 tuổi. Cả hai nhóm mẫu
nghiên cứu cũng ghi nhận là họ mong muốn tìm hiểu về những vấn đề này sâu sắc
và rõ ràng hơn.
Đặc biệt hơn nữa, nghiên cứu này cũng chỉ ra
thanh thiếu niên dần có xu hướng cảm thông và hành xử nhẹ nhàng hơn với các bạn
đồng trang lứa của mình.
***
Những biện chứng trên không hẳn là để ủng hộ
việc lãng mạn hóa hành vi tự sát. Như đã chỉ ra, lời khuyên về tính nhạy cảm và
sự cần thiết trong việc tham khảo ý kiến của các chuyên gia sức khỏe tâm lý trước
khi mang hoạt động và hình ảnh tự sát vào các tác phẩm nghệ thuật là hợp lý và
là điều phải làm.
Tuy nhiên, không phải vì vậy mà có thể cho rằng
văn hóa kiểm duyệt vô lối tại Việt Nam là phù hợp, là tiêu chuẩn cần phải được
thực hiện bằng mọi giá. Đặc biệt là khi các nghiên cứu về mối liên hệ giữa các
sản phẩm văn hóa đại chúng có lồng ghép ngôn ngữ/ hình ảnh tự tử với khả năng tự
tử thật của khán thính giả đều cho các kết quả hỗn hợp.
Vì lý do này, việc cấm đoán hoàn toàn các sản
phẩm văn hóa xây dựng nội dung và thông điệp dựa trên tự tử đôi khi cũng là con
dao hai lưỡi làm hại chính những nhóm bị tổn thương đang cần được đại diện, cần
được cất tiếng, cần được thấu hiểu thông qua các sản phẩm đại chúng.
Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài
bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.
Chú thích
1. Wilde, N. (2018, November 29). The
Werther effect – About the handling of suicide in the media. Open Access
Government.
https://www.openaccessgovernment.org/the-werther-effect/42915/
2. Sinyor M, Stack S, Niederkrotenthaler T. What
the highest rated movie of all time may teach us about portraying suicide in
film. Aust N Z J Psychiatry. 2020 Mar;54(3):223-224. doi:
10.1177/0004867419891247. Epub 2019 Dec 3. PMID: 31793796.
3. WHO. (2019) Preventing Suicide - A
Resource for Filmmakers and Others Working on Stage and Screen.
4. Durkheim, E (1897) On Suicide.
London: Penguin.
5. Ferguson, CJ (2018) 13 Reasons Why
Not: a methodological and meta-analytic review of evidence regarding suicide
contagion by fictional media. Suicide and Life-Threatening Behavior 49(4):
1178–1186.
6. Lauricella, AR, Cingel, DP, Wartella,
E (2018) Exploring How Teens and Parents Responded to ‘13 Reasons Why’:
Global Report. Evanston, IL: Center on Media and Human Development,
Northwestern University.
--------------------------
Đọc thêm bài của
No comments:
Post a Comment