Nguyễn
Tiến Hưng
Apr 29, 2020
“Hải Quân của Bắc Việt
không thể nào vào tới tận Trường Sa, tại sao các ông phải thả neo chiến hạm ở
Trường Sa?”
Tướng John Murray, chỉ
huy Cơ Quan Viện Trợ Quốc Phòng Mỹ ở Sài Gòn, hỏi tôi trong một buổi Việt-Mỹ
duyệt xét về tình hình viện trợ vào mùa Hè 1974, đặc biệt là tình hình chi tiêu
của Quỹ Đối Giá, để có dữ liệu thông báo cho Bộ Tài Chính.
Quỹ Đối Giá (Counterpart
Fund) là nguồn tiền quan trọng nhất của viện trợ kinh tế Mỹ cho Việt Nam Cộng
Hòa. Đây là một ngân khoản thu được khi nguồn tiền do “Viện Trợ Nhập Cảng” được
đổi ra tiền đồng Việt Nam. Quỹ này được cả hai phía Việt-Mỹ quản trị rất chặt
chẽ.
Đầu năm 1974, có tin dồn
dập là Quốc Hội Mỹ sẽ đi tới việc cấm cả việc sử dụng quỹ này để tài trợ cho
ngân sách quốc phòng. Vài tháng sau thì tin đồn này thành sự thực. Tiếp theo là
hành động bết bát của Nghị Sĩ Dân Chủ Ted Kennedy, ngày 11 Tháng Bảy,
1974, ông đưa ra một Tu Chính Án để cắt 50% viện trợ kinh tế cho Việt Nam Cộng
Hòa. Washington lập tức khuyến cáo chính phủ Sài Gòn phải cắt chi tiêu ngân
sách tối đa, nhất là chi tiêu quốc phòng, thí dụ như xăng nhớt và các căn cứ
quân sự.
Trong bối cảnh ấy, Tướng
Murray đề nghị thu hẹp phạm vi hoạt động của Hải Quân VNCH, đặc biệt là ở Trường
Sa.
Nhưng mặc dù đang ở trong
một tình cảnh nghiệt ngã, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định ngược lại:
không thu hẹp mà còn tăng cường sức mạnh của Hải Quân để chuẩn bị khai hỏa.
Phát triển Hải
Quân Việt Nam Cộng Hòa
Hiệp Định Paris (27 Tháng
Giêng, 1973) được gọi là “Hiệp Định Da Beo” vì nó cho phép quân đội của miền Bắc
đóng lại ở miền Nam, và đóng rải rác khắp nơi như những đốm da beo trên bản đồ.
Vì vậy, Lục Quân Việt Nam Cộng Hòa không được vận chuyển qua những đốm này, và
Không Quân thì cũng không được bay trên bầu trời bao phủ nơi đây. Riêng Hải
Quân thì lại không bị ảnh hưởng, vì vào lúc ký kết hiệp định thì trên mặt biển
hoàn toàn không có chiến hạm của Bắc Việt thả neo, cho nên không có đốm nào cả,
và vì vậy Hải Quân tiếp tục làm chủ được đại dương với sức mạnh bảo vệ các hải
đảo.
Theo như đánh giá của Tổng
Thống Thiệu thì việc phát triển Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa là thành công lớn nhất
của chương trình Việt Nam Hóa (Vietnamization). Có thể là vì ông đã tiên đoán rất
đúng rằng Trung Quốc sẽ nhòm ngó Hoàng Sa và Trường Sa sau khi Mỹ rút khỏi miền
Nam cho nên đã thuyết phục được Đô Đốc Hải Quân Mỹ Emmo Zumwalt tích cực yểm
trợ.
Chỉ trong vòng có năm
năm, các cơ xưởng của Hải Quân đã có thể dự trữ tới 64,200 vật liệu và phụ tùng
để sửa chữa và bảo trì cho 1,429 tàu chiến – từ Khu Trục Hạm, Tuần Dương Hạm tới
Dương Vận Hạm, sà lan chở dầu. Hệ thống tiếp liệu của Hải Quân còn được Bộ Quốc
Phòng Mỹ đánh giá là lớn lao nhất và hiệu quả nhất Đông Nam Á.
Khi quân viện bị cắt vào
Hè 1974 thì khả năng hùng hậu ấy tuy bị suy giảm vì thiếu phụ tùng bảo trì và
xăng nhớt, nhưng hoạt động bị ảnh hưởng nhiều nhất là công tác tuần giang: kiểm
soát sông ngòi và sát ven biển. Hải Quân phải giải tán 600 giang thuyền, trong
đó 240 giang thuyền thuộc quyền sử dụng của Địa Phương Quân, nhưng lực lượng và
khả năng các loại hải hạm vẫn còn nguyên vẹn: 93 tàu biển và trên 1,300 tàu loại
nhỏ.
Một góc Trường Sa của
Việt Nam. (Hình: Romeo Gacad/AFP via Getty Images)
Mỹ đề nghị rút chiến hạm khỏi
Trường Sa
Trong bối cảnh quân viện
bị cắt thật nhanh, Mỹ đề nghị rút chiến hạm khỏi Trường Sa và đóng cửa một số
cơ sở của Hải Quân ở Vùng IV. Trở lại buổi họp với Tướng John Murray trên đây,
ông nói, sở dĩ phải đề nghị như vậy vì đã nhận được chỉ thị từ Washington về vấn
đề cắt giảm chi tiêu, thực tế nhất là tiết kiệm xăng nhớt vì giá dầu đã tăng
lên gấp bốn lần sau cuộc chiến Do Thái-Ai Cập vào mùa Thu năm trước.
Đây là vấn đề quân sự,
nhưng lúc ấy vì một tình cờ chúng tôi mới biết được đề nghị của Tướng Murray vì
nó liên hệ tới ngân sách viện trợ (là lãnh vực của chúng tôi). Trong một báo
cáo gửi Tổng Thống Thiệu, ông Murray đề nghị nên rút chiến hạm ra khỏi Trường
Sa và đóng cửa bốn căn cứ Hải Quân ở vùng Đồng Bằng Cửu Long, chúng tôi còn ghi
lại rất rõ ràng:
“Ngoài Xưởng Đóng Tàu và Trung Tâm Tiếp Liệu, chúng
tôi thấy Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa có bốn loại cơ sở: những căn cứ yểm trợ
hành quân, yểm trợ chuyển vận, yểm trợ nhanh (immediate-support bases – ISB’s),
và những cơ xưởng sửa tàu. Trong số này, chúng tôi thấy Việt Nam Cộng Hòa nên
đóng lại những cơ sở sau đây để tiết kiệm tiền bạc và tăng hiệu năng:
1-Căn cứ yểm trợ hành quân ở Cần Thơ.
2-Hai căn cứ yểm trợ hành quân tại Vĩnh Long, và
Long Phú.
3-Hai căn cứ sửa tàu ở Cửu Long và Cần Thơ.
4-Hai căn cứ yểm trợ nhanh ở Chợ Mới (An Giang) và
Thuận An (Bình Dương).”
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
hành động ngược lại: chuẩn bị khai hỏa ở Trường Sa
Tôi hỏi Tướng Murray tại
sao nên rút chiến hạm khỏi Trường Sa? Ông Murray trả lời là vì hai lý do:
-Thứ nhất, nguyên tiền
xăng nhớt cho hai chiến hạm ở đây đã tốn tới nửa triệu đô la một năm, một khoản
tiền lớn lúc đó vì ngân sách quốc phòng đã cạn.
-Thứ hai, thả neo ở Trường
Sa là không cần thiết vì “Hải Quân của Bắc Việt không thể nào vào tới tận Trường
Sa.”
Họp xong, tôi vội vào
Dinh Độc lập báo cáo với Tổng Thống Thiệu. Ông nhìn tôi, lắc đầu và nói: “Bắc
Việt không thể nào vào tới Trường Sa nhưng sau Hoàng Sa, Trung Cộng đã ngừng để
nghỉ ngơi, tái phối trí, nhưng rồi sẽ tiến thẳng tới Trường Sa.”
Chúng tôi cho rằng, sở dĩ
ông nhất quyết như vậy – dù đã sắp hết tiền mua xăng – một phần cũng vì ông muốn
bảo vệ kho tàng dầu lửa. Lúc ấy thì chưa ai biết được rằng khi ông ra lệnh khai
hỏa ở Hoàng Sa vào đầu năm 1974 thì Bộ Ngoại Giao Mỹ dưới quyền Bộ Trưởng Henry
Kissinger đã gửi chỉ thị cho Tòa Đại Sứ ở Sài Gòn là phải can ngăn ông Thiệu “đừng
có đụng độ thêm nữa với lực lượng Trung Quốc về mấy hòn đảo này” (Kissinger là người đã tác động
Tổng Thống Richard Nixon cứu vớt Trung Quốc khỏi bị Liên Xô tấn công nguyên tử
vào năm 1969, rồi mở cửa Bắc Kinh, đóng cửa Sài Gòn, và giúp cho Trung Quốc trở
nên một cường quốc như ngày nay).
Nhưng vấn đề không phải
là mấy hòn đảo nhỏ bé hay bãi cạn mà cái gì nằm ở dưới những hải đảo, bãi cạn
này.
Bởi vậy Tổng Thống Thiệu
đã ra lệnh cho Hải Quân đưa những chiến hạm mạnh mẽ nhất tới Trường Sa để chuẩn
bị khai hỏa. Rút tỉa bài học từ Hoàng Sa, rất có thể là ông cũng đã có kế hoạch
sử dụng không quân ngay từ đầu cuộc chiến để bắn chìm tàu Trung Quốc chứ không
đợi tới sau hải chiến.
Nhắc lại về trận Hoàng
Sa: cuối ngày hải chiến (19 Tháng Giêng, 1974) vào 8 giờ tối Tổng Thống Thiệu
ra mật lệnh cho Không Quân dùng phản lực cơ chiến đấu siêu thanh F5-E để phản
công. Vì F5-E có trang bị bom tầm nhiệt nên chắc chắn những phi vụ này đã thành
công vì chiến hạm Trung Quốc phun khói nóng, dày đặc góc trời. Ngày hôm sau
đoàn phi công đã cất cánh, nhưng vừa bay được khoảng trên một trăm dậm thì phải
quay về ví áp lực từ Đệ Thất Hạm Đội yêu cầu ngừng kế hoạch oanh tạc, nhấn mạnh
rằng sẽ không có “top cover” – yểm trợ trong trường hợp bị phi cơ của Trung Quốc
từ căn cứ ở Hải Nam bay lên để không chiến, và cũng không có “rescue” – cứu vớt
nếu bị bắn rơi (xem tường thuật của Đại Tá Phi Công Nguyễn Quốc Hưng trong cuốn
“Khi Đồng Minh Nhảy Vào,” chương 25).
Phản hồi lại giai thoại này, chúng tôi thấy rõ lý do Tổng Thống Thiệu
cương quyết như vậy là vì ngay sau lớp chiến hạm của Hải Quân là các công ty quốc
tế đang hoạt động rất thành công trong việc tìm kiếm dầu lửa, dầu khí. Theo ước
tính thì cuối năm 1975 sẽ có tới 20 giàn khoan hoạt động. Hai hãng Esso và
Sunningdale lại còn dự định bắt đầu khoan dầu vào ngay Tháng Tư, 1975.
Một thanh niên dùng
điện thoại chụp lại bản đồ cổ đảo Trường Sa và Hoàng Sa khi đến tham dự triển
lãm tại Bảo Tàng Quân Đội ở Hà Nội hôm 10 Tháng Bảy, 2013. (Hình: Hoang Dinh
Nam/AFP via Getty Images)
Niềm hy vọng dang dở
Triển vọng dầu lửa thì đã
trở nên lạc quan ngay từ Hè 1974. Ngày 17 Tháng Tám, 1974, hãng Pecten đào
trúng dầu ở lô 08-TLD, đặt tên là HỒNG-X. Rồi giếng thứ hai, đặt tên là DỪA
1-X. Pecten rất vui mừng, quyết định tiến hành khai thác ngay lô 06-LTD, tìm thấy
có dấu hiệu còn khả quan hơn nữa. Tin mừng cứ thế mà đến.
Ngày 11 Tháng Hai, 1975,
hãng Mobil đào tới độ sâu 3,000 mét, thu được 430 thùng dầu/ngày cùng với 5,600
mét khối dầu khí. Bảy ngày sau, lại thu được 2,400 thùng dầu và 25,000 mét khối
dầu khí. Kết quả này được liên doanh Mobil – Kaiyo đánh giá là rất có triển vọng.
Mobil ước tính chỉ tới 1977 sẽ khai thác được lượng dầu thương mại khả quan tại
mỏ này.
Tin vui được gửi nhanh về
Sài Gòn: biết đâu biết đâu đấy, chỉ trong vài ba năm sẽ có thể xuất cảng tới 1
tỷ đô la mỗi năm (tương đương 4.3 tỷ đô la năm 2020), triển vọng cho một
miền Nam trù phú có thể tự lực, tự cường mà không còn phải nhờ vả vào
người đồng minh Hoa Kỳ nữa, đã thực sự tới.
Ngày 24 Tháng Hai, 1975
(chỉ trên hai tháng trước sụp đổ) Việt Tấn Xã từ Sài Gòn loan tin: “Hôm nay, 15
giờ, thứ hai, tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã rời Sài Gòn đi
quan sát giếng dầu Bạch Hổ-IX được khoan cách Sài Gòn chừng 200 cây số về hướng
Đông Nam trên thềm lục địa Việt Nam. Cùng tham dự với tổng thống hôm nay có Thủ
Tướng Chính Phủ Trần Thiện Khiêm, ông Tổng Trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng,
ông Tổng Cục Trưởng Dầu Hỏa và Khoáng Sản Trần Văn Khởi và ông Tổng Giám Đốc
Mobil Vietnam Peter Gelpke.”
Trên chuyến bay ra khơi,
xa xa khi nhìn thấy ngọn lửa cháy sáng rực trời từ những ống khí trên giàn
khoan, vẻ mặt ông Thiệu tươi vui hẳn lên. Ông đăm đăm nhìn thật chăm chú. “Bao
giờ thì mới thực sự có dầu,” ông quay lại hỏi tôi. “Thưa tổng thống, theo Bộ
Kinh Tế ước tính dựa trên những thông tin của các hãng thăm dò thì muộn lắm là
tới cuối năm 1977,” tôi trả lời. Trong bối cảnh chiến trường bắt đầu sôi động,
kinh tế khủng hoảng, đồng thời lại liên tục nhận được những tin tức đen tối cúp
viện trợ từ Washington, ngọn lửa nghi ngút thoát ra từ những ống dầu khí ngoài
khơi đã chiếu rọi được một tia sáng hy vọng vào tâm trí người lãnh đạo miền
Nam.
Trên giàn khoan, khi
chuyên gia trình bày về khả năng sản xuất, ông Thiệu lắng nghe mọi chi tiết.
Người chuyên gia kết luận rằng nếu có thêm sự khuyến khích thì các hãng có thể
tăng phương tiện để khai thác nhanh hơn. “Khuyến khích làm sao,” ông nhìn tôi hỏi.
Tôi trình bày rằng có thể xem xét lại hợp đồng rồi cho họ chia phần thật cao,
hoặc nghiên cứu khía cạnh thuế má để cho họ ưu đãi nhiều hơn khi họ bắt đầu xuất
cảng. Ông Thiệu đồng ý ngay: “Được chứ, được chứ.”
Ghi chú cho lịch sử về Trường
Sa
Hồi tưởng tới giai thoại
này, chúng tôi xin ghi lại một chú thích cho lịch sử: khi tháp tùng Tổng Thống
Thiệu ra thăm giàn khoan như đề cập trên đây, chúng tôi có được nghe chuyên gia
của hãng đào dầu thuyết trình về tiềm năng dầu lửa của Trường Sa tuy là lớn lao
nhưng bị rò rỉ: “Mỏ dầu vĩ đại của các ông dính liền với mỏ dầu của Indonesia,
cho nên các ông rất thiệt thòi nếu không gấp rút khai thác.”
Indonesia là thành viên của
OPEC. Thu nhập từ xuất cảng dầu chính là động lực phát triển kinh tế của nước
này. Hoạt động khai thác đã bắt đầu ngay từ năm 1871 ở Bắc Sumatra, như vậy là
lâu vào hàng nhất thế giới. Năm 1973-1974 khi giá dầu thô tăng lên gấp bốn lần,
Indonesia được hưởng số ngoại tệ cũng tăng theo gấp bốn lần, quốc tế gọi là
“oil bonanza.” Đang khi đó, miền Nam Việt Nam điêu đứng vì bão tố siêu lạm phát
đã ập tới. Miền Bắc thì không bị ảnh hưởng vì có Liên Xô cung ứng xăng dầu theo
hiệp định giữa hai nước ký kết vào năm 1968.
Dân gian ta thường nói:
“Nước ta có tiền rừng bạc biển.” Tiền rừng thì chẳng có là bao, vả lại khai
thác gỗ quý mà xuất cảng thì lại phá hủy hệ sinh thái, nhưng tiềm năng bạc biển
thì thật lớn. Cho nên, nếu những giếng dầu của Việt Nam thực sự nối kết với những
giếng của Indonesia – như chúng tôi được nghe từ các chuyên gia – thì thật là
thiệt thòi cho người dân Việt.
Như vậy là Indonesia đã
khai thác dưới lòng biển từ cả trăm năm rồi, bây giờ thì Trung Quốc khai thác –
vừa ở dưới vừa ở trên mặt biển.
Khu trục hạm USS
Bunker Hill (CG-52) (phải) và khu trục hạm USS Barry (DDG-52), thuộc lớp
Arleigh Burke, đi vào Biển Đông ngày 18 Tháng Tư, 2020. (Hình: US Navy)
Câu chuyện Biển Đông ngày
nay
Đục nước béo cò: khi cả
Việt Nam, cả Mỹ, và hầu hết các quốc gia trong khu vực đang chìm đắm trong cảnh
điêu linh COVID-19, Bắc Kinh công bố thành lập hai huyện đảo để kiểm soát cả
Hoàng Sa lẫn Trường Sa, rồi tăng tốc gây hấn ở Biển Đông. Phi Luật Tân vừa cực
lực phản đối việc Bắc Kinh tuyên bố một phần lãnh thổ Phi là thuộc về tỉnh Hải
Nam.
Nối kết Hải Nam với Hoàng
Sa, rồi Trường Sa, rồi Scarborough của Phi Luật Tân thì tuyến “Vạn Lý Trường
Thành Trên Biển” mà Trung Quốc quyết tâm thiết kế đã sắp hoàn thành.
Đối với Mỹ thì khu vực
này là rất quan trọng, vì không những nó nằm sát đường vận chuyển hàng hải quốc
tế chính yếu mà còn là tuyến phòng thủ miền Tây của nước Mỹ – như Tổng Thống
Lyndon Johnson đã từng tuyên bố: “Nếu bỏ khu vực Biển Đông thì Mỹ tất phải rút
về San Francisco.”
Câu hỏi nhiều người đặt
ra là tại sao Mỹ không phản ứng trước những hành động mới đây của Trung Quốc?
Thực ra thì Tổng Thống Donald Trump đã phản ứng trong thời gian gần đây. Mặc dù
mất ăn mất ngủ trong bốn tháng bị Hạ Viện với đa số Dân Chủ điều tra để bãi nhiệm
– và truyền thông được cơ hội tấn công ào ạt, tiếp đến là nạn dịch COVID-19,
ông cũng đã hành động khá mạnh mẽ trong vụ Trung Quốc-Việt Nam và Trung Quốc-Malaysia
ở Biển Đông, cảnh cáo Trung Quốc không được dùng pandemic để gây rối loạn, cũng
như vừa cùng Australia đi vào các đảo Trung Quốc đang chiếm đóng, và tàu Mỹ
vừa đi qua Taiwan strait lần thứ hai trong Tháng Tư này.
Mặt khác, vì bầu cử đã sắp
tới, ông cũng không muốn làm to chuyện vì không có lợi cho mình. Lịch sử Mỹ đã
chỉ ra rằng: cứ bốn năm, khi có cuộc bầu cử tổng thống thì chính quyền đương
nhiệm phải tự kiềm chế những hành động có tính cách hiếu chiến, và tìm đủ mọi
cách để mang viễn tượng hòa bình đến cho dân chúng Mỹ thì mới mong thành công.
Điều này thì Trung Quốc cũng đã biết quá rõ. Cho nên, ta phải chờ sau bầu cử (3
Tháng Mười Một, 2020) thì mới có câu trả lời rõ ràng hơn. (Nguyễn Tiến
Hưng) [qd]
----------------------
Tác giả: Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên giáo sư
kinh tế tại N.C. Wesleyan College, Trinity College, và Howard University,
và là kinh tế gia của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (1966-1070). Ông là cựu Tổng
Trưởng Kế Hoạch Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1973 đến 1975, và là phụ tá về Tái Thiết
của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản –
ngoài những sách về kinh tế – các cuốn “The Palace File” (Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập)
(1986), “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” (2005), “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” (2010) và
“Khi Đồng Minh Nhảy Vào” (2016).
No comments:
Post a Comment