Thứ Tư, 29 tháng 4, 2020
(Viết nhân ngày
30/4/2020)
Bài này được dành cho
ngày 30 tháng 4 năm nay 2020 để đánh dấu 45 năm sau ngày miền Nam VN bị quân đội
Cộng Sản miền Bắc cưỡng chiếm bằng võ lực, sau khi bị Kissinger lập mưu cho Hoa
kỳ bỏ rơi để mua chuộc Trung Quốc với thị trường tương lai khổng lồ 1,3 tỷ dân.
Nhưng tác giả muốn viết
không chỉ để nhớ về dĩ vãng buồn vào mỗi dịp tháng 4, mà còn nhằm duyệt lại những
thành tựu không thể phủ nhận của 21 năm Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975) đã để lại
cho Việt Nam bây giờ và tương lai, và gây lại một niềm tin cho Cộng đồng hải
ngoại cũng như đại đa số người Việt yêu tự do ở bên kia vòng địa cầu.
Đó là lý do thúc đẩy
chúng tôi muốn nhìn lại “Hội Chứng (“Syndrome”) Việt Nam” từ 45 năm qua để xác
định tại sao trên 4 triệu người Việt đã phải rời xa xứ sở năm 1975 và các năm
tiếp sau, để hóa giải mặc cảm của “Bên Thua Cuộc”.
Đồng thời, nhưng quan trọng
hơn, là để tri ân những thành tích của các bậc cha anh đã dựng nước và để lại “Di
Sản VNCH” càng ngày càng rõ rệt, mà đồng bào cả nước bây giờ không thể phủ
nhận.
Trước tiên, di sản lớn nhất của VNCH đã để lại cho thế hệ sau 1975 phải
nói đến là nền văn hóa âm nhạc phong phú, đa dạng và chan chứa tình tự dân tộc. Dù đã có những chỉ thị và chủ trương tiêu diệt
tận gốc rễ của chính quyền Cộng Sản từ ngay sau tháng 4/1975, nhưng nét văn hóa
bất diệt này vẫn tồn tại ở miền Nam và sau đó lan dần ra miền Bắc. Ban đầu chỉ
có một số nhỏ bài hát được phép trình diễn chính thức, nhưng danh sách này lớn
dần và đến nay thì hình như không có lệnh cấm nổi nữa. Phong trào ưa nhạc
Bolero, hay còn được gọi là “Nhạc vàng” tràn ngập bây giờ, là thí dụ hùng hồn
nhất. Tuy nhiên trong giới hạn của bài này, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến các
di sản chính khác về giáo dục, kinh tế, tổ chức hành chính pháp quyền và xã hội.
Như sẽ tóm tắt trong phần
kết, người viết còn mạo muội nghĩ di sản đó bao gồm sau cùng cả mặt chính trị,
đảo lộn vai trò người thắng kẻ thua cuộc sau cùng.
Tự Hào Tuổi Trẻ và
Giáo Dục Miền Nam
Đọc xong vài quyển sách gợi
chuyện cũ, tưởng như đã được rũ sạch nỗi ấm ức cái “Hội Chứng Việt Nam”
(Vietnam syndrome) từ lâu về một đất nước phú cường văn minh như Nam Hàn phải
có trong giấc mơ cho xứ mình.
Thật sự từ bao năm nay, sau
khi du học ở tuổi 18 rồi ra trường, sống và đi làm nhiều nơi, tôi vẫn chưa tỉnh
hay thoát ra khỏi “NÓ”. Tôi chưa giải tỏa được nỗi ấm ức của “giấc mơ xưa” ở tuổi
thanh xuân. Tôi từng có những giấc mơ đội đá vá trời và lòng tự tin nhưng suốt
đời vẫn chưa tìm thấy chốn “dung thân” để phục vụ lý tưởng tuổi nhỏ.
Đã từng về sống và làm việc
ở Sài gòn suốt 12 năm từ 2003 đến 2014 lúc tóc đã hoa râm, nhưng rút cục tôi
cũng chỉ tìm thấy nỗi u hoài của một thời đã mất, thay vì cái lý tưởng của một
thời nung nấu.
Trong những năm tháng trở
lại đó, nhìn lại hàng ngày thấy rõ sự phồn thịnh hơn của xã hội về vật chất so
với những ngày tuổi trẻ miền Nam của tôi, nhưng tôi vẫn tò mò tìm hiểu nơi đám
người tuổi trẻ hiện nay, xem họ có chia sẻ cái “phần hồn ngày xưa” của đám anh
em chúng tôi đã lớn lên trong cùng thành phố này.
Những ý nghĩ bên tách cà
phê làm sống lại hình ảnh những con đường phố cũ – thuở tôi còn cắp sách đi học
cấp 2 và 3 (trung học đệ nhất và đệ nhị cấp ngày trước), gò lưng mỗi ngày trên
chiếc mobylette vàng của một thằng học trò lớp Đệ Nhất (lớp 12 bây giờ) phóng từ
ngôi nhà đường Duy Tân, đến ngôi trường Trung Học Chu Văn An thân yêu, học hành
chăm chỉ mong chuẩn bị sự nghiệp tương lai.
Chúng tôi lớn lên trong
khung cảnh của một đất nước loạn ly, nhưng may mắn còn được hấp thụ một nền
giáo dục, tuy mang tiếng “từ chương” lý thuyết nhưng vẫn có một giá trị tối thiểu
nào đó được chứng minh sau này khi đàn chim non miền Nam chúng tôi tốt nghiệp
trung học, bay ra khắp các chân trời thế giới đã ghi lại nhiều thành tích trong
các trường đại học Âu Mỹ.
Chúng tôi còn may mắn lớn
lên trong một nền lễ giáo cổ truyền Việt Nam còn sót lại, tôn trọng các giá trị
gia đình cao đẹp từ ngàn xưa, những tin yêu vào tình đời tình người vẫn còn mạnh
mẽ.
Nhất là thời kỳ “vàng
son” 1955-63 của nền Đệ Nhất Cộng Hòa trong thanh bình thịnh vượng của một VNCH
dân chủ tương đối.
Đáng nói nhất là đám thiếu
niên tuổi 15-16 thuở chúng tôi đã manh nha một lòng yêu nước mãnh liệt, muốn
góp tay xây dựng một đất nước phú cường bằng sự chăm chỉ học hành trau dồi kiến
thức, mơ tưởng đến một nền kinh tế hùng mạnh, một xã hội ấm no công bằng. Chúng
tôi chỉ có ý nghĩ đơn giản như đại đa số thanh thiếu niên trong các nước Á Châu
khác lúc ấy, là sẽ cố gắng học hành hay làm việc để xây dựng đất nước bằng một
nền kinh tế vững chắc. Đó là lưu dấu kỷ niệm đậm đà nhất của tuổi thanh niên mới
lớn ở miền Nam.
Sau này khi có dịp về sống
và làm việc ở Sài Gòn rồi ngồi trầm ngâm hàng giờ bên ly cà phê ở quán
Continental, tôi ngỡ ngàng xem từng đoàn xe máy phóng như đua chung quanh Nhà
Hát Thành Phố (Trụ sở Hạ Nghị Viện VNCH trước 1975) của những người trẻ tuổi
bây giờ.
Họ đang diễn hành, la hét
ầm ĩ, ngay cả vài cô ăn mặc thiếu vải nhún nhảy tự nhiên trên băng sau của những
chiếc xe máy Honda đắt tiền kiểu mới nhất, ăn mừng trận bóng tròn vừa thắng các
hội Thái Lan hay Mã Lai. Họ hét to “Việt Nam vô địch” như thể hiện ý chí chiến
thắng đó giống các nhóm khán giả đông đảo thường la to mỗi lần có mặt trên những
sân vận động.
Nhóm đua xe đông quá và
dường như tạo thành sức sống mãnh liệt cho cái thành phố quá tải của đất nước
được mệnh danh là “non trẻ” này, khi các nhóm trẻ từ 20 đến 40 tuổi được ước
tính chiếm 40% dân số, vẫn là một ẩn số lớn về xã hội và chính trị.
Những người trẻ bay lượn
trong phố đêm trên những “mô tô bay” như biểu hiện của tự do, của văn minh còn
được tìm thấy cho tuổi trẻ của mình trong đất nước đó. Tôi chợt hiểu tại sao họ
thường “đi bão, xuống đường” tràn ngập với những rừng cờ đỏ, băng rôn hay tô
son vẽ mặt đậm màu quốc kỳ để chào mừng một trận bóng tròn vừa thắng “kẻ địch”.
Bên trên những chiếc xe
máy tốc độ giúp cái hừng khí ngắn ngủi chợt tìm thấy, lòng yêu nước được dịp tỏ
rõ qua những sự kiện thể thao. Đam mê còn lại đó cùng những ly bia đầy giúp họ
xóa đi cái vô cảm hàng ngày với những vấn đề lớn hơn của xã hội, và bớt đi cái
mặc cảm thiếu trách nhiệm với một đất nước tụt hậu thua kém láng giềng. Họ có vẻ
ít nghĩ xa như vậy.
Những người lớn tuổi xưa
cũ của thành phố này thường tỏ lộ u hoài, nói với tôi là họ nhớ lại các thế hệ
cùng tuổi như chúng tôi dạo 1960-1970. Ngay chính Bà Chủ tịch Quốc hội đương thời,
Nguyễn Thị Kim Ngân, vốn gốc tỉnh Bến tre thời VNCH, cũng phải tâm sự lên tiếng
khen nền giáo dục cũ của miền Nam.
Những ý nghĩ vụn này đã tạo
dịp cho tôi được sống lại những tự hào của một thời tuổi trẻ trong thành phố
Sài gòn, được hưởng nền giáo dục VNCH, với lý tưởng mộng mị cho một Việt Nam
hùng mạnh tương lai. Ra đi du học mong trau dồi kiến thức với tâm huyết hừng hực
của một thanh niên tuổi 20, và sau này lúc ra đời làm việc ở nhiều nơi trên thế
giới, vẫn mang trái tim phục vụ tuổi 30 dù mái tóc đã điểm sương.
Và cùng với người Sài Gòn
bây giờ, tôi vẫn thấy bừng lên sức sống với giấc mơ xưa: Biết đâu sẽ có một
ngày?
Di Sản Cộng Hòa Cho VN
Bây Giờ là gì?
Yếu tố nổi bật nhất cho nền
kinh tế của VN thống nhất bây giờ là số tiền khổng lồ của người Việt từ khắp thế
giới gửi về hàng năm, từ vài chục triệu đô la những năm đầu 1975-76 lúc mới lập
nghiệp còn khốn khó nơi xứ người đến trên chục tỷ mỗi năm sau này cả để trợ
giúp người thân và đầu tư cá nhân, con số tổng cộng có thể lên tới ước chừng
200 tỷ đô la. Con số đó vượt qua bất cứ viện trợ kinh tế nào mà VN nhận được,
và nhất là đã đóng vai trò xương sống cho kinh tế miền Nam những năm đầu sau thống
nhất, tránh sụp đổ ngay sau thập niên đầu sau 1975 lúc bên bờ vực thẳm của sự
thiếu cả lương thực và thuốc men! Từ đó miền Nam đã phát triển dần và trở thành
đầu tầu tầu kéo theo phát triển của cả nước.
Ngoài nền tảng đóng góp
tài chính khổng lồ như trên, so sánh thời kỳ 21 năm dưới VNCH với thời gian ít
hơn một nửa trong 45 năm của nước VN thống nhất, hai di sản kinh tế nổi bật
truyền lại của VNCH là:
A.- VNCH thành
công trong việc phát triển nền kinh tế thị trường thực sự
Dù chưa được quen thuộc
nhiều với các định chế kinh tế và tài chính quốc tế hay các nền kinh tế tư bản
lớn, VNCH đã biết sớm theo các qui luật của nền kinh tế thị trường và nhất là
nhấn mạnh vai trò khu vực tư nhân.
Điều này tương phản hoàn
toàn với nền kinh tế VN bây giờ, sau 45 năm thống nhất, vẫn loay hoay với lý
thuyết “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” mà không ai chứng
minh được. Các thay đổi lớn sau hơn ba thập niên Đổi Mới từ những năm 1986-1989
đã giúp VN có một bộ mặt tương đối phồn thịnh ở các thành thị, nhưng đi dần vào
bế tắc nếu không có các cải cách thể chế chính trị song hành với cải cách kinh
tế ở giai đoạn tới.
CÁCH MẠNG “XANH”
Đặc biệt là chính sách “Cải
Cách Điền Địa” dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa được tiếp nối bởi “Người Cày Có Ruộng”
dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nhằm lấy lại các mảnh ruộng bao la nằm tập trung
trong tay một số nhỏ đại điền chủ từ thời Pháp thuộc, phát đất rộng rãi cho các
tầng lớp nông dân và khuyến khích tự do trồng trọt, nhất là lúa gạo, để miền
Nam tự cường. Ngoài ra, và quan trọng nhất, là những năm về sau Chính phủ VNCH
đã cho áp dụng một chính sách qui mô cho gieo hạt lúa mới “Thần Nông” trên toàn
vùng đồng bằng Cửu Long, làm tăng gia đột biến năng suất trồng lúa và mức sản
xuất gạo của đất nước, đưa đến cả khả năng xuất cảng gạo bắt đầu vào năm 1974.
Đây là thành tích kinh tế đáng kể của VNCH khi cuộc chiến tương tàn cũng đi vào
giai đoạn ác liệt nhất.
Nước VN thống nhất sau
tháng 4, 1975 mới chỉ nhận ra tầm quan trọng của chính sách sản xuất lúa gạo tự
do với Đổi Mới từ năm 1986 khi đến bờ vực của nạn đói, lúc không sản xuất đủ gạo
ăn và dân chúng bắt đầu phải trộn cơm với bo bo từ những năm 1980. Từ khi chính
phủ trung ương ở Hà Nội thay đổi chính sách bằng “ngòi bút” từ nghị quyết năm
1986 cho phép dùng giá cả và sản xuất tự do, di chuyển gạo từ vùng thừa sang
vùng thiếu, đã làm lại cuộc “cách mạng xanh” nói trên của VNCH, khởi đầu toàn
chiến lược đổi mới nông nghiệp và tiếp đó “lột xác” toàn nền kinh tế trong ba
thập niên theo sau. Điều đáng lưu ý là cuộc cách mạng này đã được thừa hưởng di
sản có sẵn của chính sách tự do trồng trọt ở đồng bằng Cửu Long, diện tích trồng
đã được phân phối rộng và công bằng ở miền Nam, và nhất là kiến thức nông gia
trong việc canh tác lúa “Thần Nông” đã có sẵn. Đáng kể hơn là việc có thể đem kỹ
thuật và giống lúa này ra đồng bằng sông Hồng ngoài Bắc, khiến mức sản xuất lúa
gạo của cả nước tăng kỷ lục, và không ngạc nhiên khi chỉ chục năm sau VN đang từ
thiếu gạo ăn trong nước, trở thành xứ xuất cảng gạo hạng ba thế giới sau Thái
Lan và Ấn Độ.
DẦU NGOÀI KHƠI
Ngoài ra VNCH còn khuyến
khích tìm ra vài “túi” dầu hỏa đầu tiên vào các năm 1973-74 ở thềm duyên hải
Vũng Tàu, chỉ tiếc là chưa kịp thì giờ và vốn đầu tư khai thác để tìm ra dung
lượng lớn đáng kể đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tình trạng
thiếu an ninh do cuộc chiến tiếp diễn hàng ngày đã là yếu tố quyết định khiến
các nhà đầu tư ngần ngại. Nhiều quan sát viên quốc tế và nhà bình luận chính trị
sau này đã tiếc cho VNCH là chưa đủ thời gian để khai thác các mỏ dầu và khí
ngoài khơi khổng lồ, nhất là đủ để hấp dẫn các hãng dầu Hoa kỳ. Nếu có, và nếu
các hãng này ký kết khai thác với chính phủ miền Nam dạo đó, chưa chắc gì có cảnh
Henry Kissinger ký kết bán đứng VNCH vào năm 1972, sửa soạn cho hiệp định ngừng
bắn Paris 1973 và ngày nhân dân miền Nam phải bỏ cuộc tháng 4/75.
Sau 1975, nước VN thống
nhất thừa hưởng trọn vẹn và dầu khí từ miền Nam trở thành tài nguyên chủ lực của
nền kinh tế VN bây giờ. Ngoài việc đem lại số xuất cảng đáng kể hàng năm cho
dân chúng và nguồn lực phát triển, đáng tiếc là một phần tài nguyên đó cũng bị
mất mát do tham nhũng và đầu tư phung phí như các tài liệu điều tra mới đây về
đầu tư ở Venezuela chỉ ra. Không cần nhìn đâu xa phức tạp hơn, phải chăng phần
di sản khác cả vài trăm tỷ của VNCH cho VN bây giờ là đây? Trong khúc hát chính
trị về "Khúc Ruột Ngàn Dặm", liệu giới hữu trách và đồng bào nơi quê
nhà có nhận thực điều này?
B.- Nền dân chủ
pháp quyền của VNCH
– Nền dân chủ phôi thai của
Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963) trong khung cảnh mới dành lại độc lập và nền dân
chủ được củng cố thêm của Đệ Nhị Cộng Hoà (1967-1975) tuy khiêm nhượng và tương
đối, do bị đe dọa hàng ngày bởi cuộc chiến, vẫn cho phép nhân dân miền Nam sống
hạnh phúc trong khuôn khổ nhân quyền được tôn trọng theo hiến chương Liên Hiệp
Quốc và các quyền tự do căn bản nhất như bầu cử, ngôn luận, hội họp, biểu tình
v.v… vẫn được thực thi.
– Chủ trương pháp trị,
hay thượng tôn pháp luật (“rule of law”) của cả hai nền Cộng hòa với bầu cử Quốc
hội và Tổng Thống tương đối tự do; nền hành chánh trung ương và địa phương được
điều khiển bởi các chuyên viên kỹ trị được đào tạo bài bản trong các trường
chuyên môn (thí dụ nổi bật là trường Quốc gia Hành chánh của miền Nam). Ở mỗi tỉnh,
người tỉnh trưởng là nhân vật chính trị hay quân sự do Chính phủ trung ương bổ
nhiệm, nhưng Phó Tỉnh trường thường là chuyên viên kỹ trị.
Trái lại, VN thống nhất
bây giờ trong chế độ Cộng sản mới chỉ cổ võ cho bầu cử tự do nhưng chưa bao giờ
thực hiện trong thực tế qua các cuộc ứng cử và bầu cử các Hội Đồng Nhân Dân và
Đại Biểu Quốc Hội.
Tương tự, VN bây giờ mới
bắt đầu học hỏi kinh nghiệm về cải cách hành chánh như dưới thời VNCH và cử
chuyên viên kỹ trị ở cấp trung ương và địa phương. Quốc Hội VN bây giờ mới sửa
soạn các dự thảo luật đề nghị bổ sung thẩm quyền của thủ tướng trong việc áp dụng
những mô hình mới về tổ chức bộ máy từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc
chính phủ trung ương, và chính quyền địa phương cấp Tỉnh và cấp Huyện. Theo đó,
thủ tướng cũng có thêm quyền thành lập, sát nhập, hay giải thể các cơ quan, tổ
chức hành chính khác thuộc cấp Tỉnh và cấp Huyện.
C.- Các tổ chức Xã
Hội Dân Sự
Các tổ chức này dưới thời
VNCH được tự do thành lập và hoạt động với qui chế tự trị về cả hành chính và
tài chính. Thí dụ như Tổng liên đoàn Lao công hay các tổ chức chính trị, xã hội
và hiệp hội.
Ngược lại nhà nước CSVN
thống nhất bây giờ đã tìm mọi cách để trì hoãn không trình ra quốc hội hai dự
luật lập hội và biểu tình, mặc dù hai quyền này của dân đã quy định trong Hiến
Pháp 2013.
Người dân cũng không được
quyền ra báo, như đã quy định trong “quyền tự do ngôn luận” ở Điều 25 Hiến pháp
2013 (Điều 25 viết: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật
quy định.”)
LỜI KẾT 1/
Như nói ở trên, những
dòng viết ngắn của người viết nhân dịp 45 năm từ biến động lịch sử 30/04/75
không phải là để thêm nước mắt cho một đau buồn còn ghi đậm dấu trong tâm hồn
tôi, một con dân Việt Nam Cộng Hòa cũ.
Với thời gian hơn 60 năm
từ tuổi thiếu niên rời trường, ra nước ngoài du học, rồi bôn ba theo vận nước nổi
trôi làm việc bên ngoài, tôi lại tìm cách “chim quay về tổ” trong 12 năm để tò
mò xem xứ mình ra sao. Nhưng cuối cùng, sau những trải nghiệm với thực tế và
con người “mới”, tôi lại phải ra đi tìm về một nơi qui ẩn để nghĩ lại đời mình
và quê hương cũ một cách bình tĩnh hơn.
Theo tôi, chúng ta trên
nguyên tắc là người thua 3/ với hai cơ hội bỏ lỡ từ thời 1963 của Đệ Nhất Cộng
Hòa và 1975 của thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Nhưng không phải hoàn toàn do lỗi chúng
ta, mà quan trọng hơn là do sự phản bội của nước bạn “đồng minh” Hoa Kỳ không
giữ lời cam kết ngăn chặn cuộc tấn công miền Nam của lực lượng Cộng Sản. Lời hứa
bằng giấy trắng mực đen của tổng thống đảng Cộng Hòa Richard Nixon lúc bấy giờ
đã hứa bằng văn thư với Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu 2/, sau khi ông Thiệu
bằng lòng ký Hiệp Định Paris 1973. Nhiều tài liệu lịch sử đã chỉ ra việc này do
tham vọng cá nhân và phản bội đồng minh của ông Henry Kissinger, mà tác giả
không muốn khơi lại làm đào sâu thêm nỗi đau 30/4.
Do đó mà chúng ta đành chấp
nhận kiếp tha hương hiện tại do số mệnh đi từ vận nước không khá kéo dài suốt từ
bao năm nay.
Theo cách nhìn và cách
dùng chữ "Bên Thua và Thắng Cuộc" của một nhà văn nổi tiếng ở VN 3/,
chúng ta VNCH bị gọi là "Bên Thua Cuộc". Tuy nhiên, hôm nay sau 45
năm nhìn lại, chúng ta có thật sự là kẻ thua hay không?
Nhìn lại thời VNCH lấy
thuyết "nhân vị" (do TT Ngô Đình Diệm, Đệ Nhất Cộng Hòa) và lấy dân
chủ tự do và văn hóa nhân bản (Đệ Nhị Cộng Hòa) đối đầu với VNDCCH của đảng CS.
Chúng ta không mất nước vì cách hành xử của chúng ta dựa trên căn bản tự do và
đạo đức này, mà mất nước vì Kissinger và TT Nixon quyết định đánh đổi miền Nam
VN lấy thị trường 1,3 tỷ người của Trung Hoa. Thân phận của một nước nhược tiểu.
Nhưng rồi, bên nào chiến thắng cuối cùng ? Xin thưa: Đó là VNCH !
Về mặt chính trị của VNCH
(tự do, dân chủ, pháp quyền), kinh tế (phồn thịnh, khoảng cách cực giầu hay cực
nghèo không có, mọi người không ai đói, cải cách ruộng đất, rồi người cày có ruộng,
bác đạp xích lô mỗi chiều đủ ăn nghỉ đạp nằm đọc báo), văn hóa và nghệ thuật (đầy
sáng tạo, nội dung phong phú, người dân miền Bắc bây giờ say mê nhạc cũ VNCH và
nhạc Vàng, hay nhạc trữ tình lãng mạn Bolero từ Nam tới Bắc). Đó là những gì mà
chúng ta hải ngoại và người Việt trong nước ca ngợi là tài sản vô giá, đáng tự
hào, về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa của VNCH để lại. Nhân bản, đạo đức, cuối
cùng bao giờ cũng sẽ thắng độc ác, cường bạo.
Dù tạm xa miền Nam thân
yêu, nhưng chúng ta những người miền Nam đã để lại di sản VNCH đáng kể cho cả đất
nước và dân tộc hôm nay và tương lai. Các kênh truyền thông và các cuộc tiếp
xúc với người trong nước đều cho thấy đại đa số đồng bào ta đều hướng về di sản
đó với lòng thán phục và thiện cảm, cũng như lòng ngưỡng mộ của họ với các nền
dân chủ tiến bộ phương Tây. Nhất là các thế hệ trẻ 25-45, lớp người quyết định
vận mệnh của đất nước Việt Nam trong 5-10 năm nữa, hy vọng sẽ nối tiếp bó đuốc
lãnh đạo và, cùng với thế hệ trẻ gốc Việt lớn lên ở hải ngoại quay về, họ sẽ có
thể hướng đất nước về một tương lai tốt đẹp hơn.
Khi tuổi đời chồng chất,
và biết thêm chút ít về Kinh Dịch của các bậc cha anh ngày trước, tôi tin vào lẽ
tuần hoàn của Trời Đất sẽ phải áp dụng cho quê hương cũ: “Cùng tắc biến, biến tắc
thông…”
Trong hàng ngũ di cư tị nạn,
nhiều người ở tuổi 35-50 là lãnh đạo cũ năm 1975, đã xa rời chúng ta. Bên kia
trời quê hương cũ, những người lãnh đạo tuổi 60-80 bây giờ dù không muốn tạo vận
hội mới cho đất nước vì tham vọng bám giữ quyền hành, liệu có thắng nổi dòng thời
gian với sức khỏe và tuổi già của họ trong 5-10 năm nữa?
Đất nước không thể “tắc”
mãi như thế này, và sắp đến lúc phải có chữ “THÔNG” mà thôi!
Chúng ta hoài niệm 30/4
năm nay trong niềm tự hào và mong mỏi phục hồi tinh thần VNCH đó!
PHẠM ĐỖ CHÍ
(Trích từ:”Một Đời Người:
Nổi Trôi Theo Vận Nước” sẽ xuất bản)
1/ Tác giả cám ơn các góp
ý của KS Dương Chí Thành (Tennessee) trong phần này.
2/ Xem tài liệu chi tiết
được dẫn trong nhiều quyển sách đã xuất bản tại Mỹ của GS. Nguyễn Tiến Hưng, cựu
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch VNCH thời 1973-75.
3/ Xem Huy Đức "Bên
Thắng Cuộc", sách nổi tiếng xuất bản tại Hoa Kỳ.
----------------------------------------------
Người
Việt Online
April 9, 2020
ORANGE COUNTY, California (NV) – Trong tuần lễ Tháng Tư Đen, Hạ Viện
Hoa Kỳ thông qua một nghị quyết do Dân Biểu Lou Correa đề xướng, thông cáo báo
chí của văn phòng vị dân cử đại diện Địa Hạt 46 của California ở Hạ Viện Hoa Kỳ
cho biết.
Nghị quyết
này tưởng niệm sự hy sinh và can đảm của người tị nạn gốc Việt phải rời Việt
Nam sau khi Sài Gòn sụp đổ.
Ngày 30 Tháng Tư, 1975, Cộng
Sản Bắc Việt xua quân chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
Sài Gòn, thủ đô Việt Nam
Cộng Hòa, bị thất thủ. Sự kiện này còn được gọi là Tháng Tư Đen, và 30 Tháng Tư
trở thành ngày lễ Tưởng Niệm của người tị nạn gốc Việt khắp nơi trên thế giới.
Họ là những người phải rời bỏ Việt Nam bị chiến tranh tàn phá và để trốn tránh
chế độ Cộng Sản độc tài.
Nghị quyết H. Res. 941 đã được Hạ Viện Hoa Kỳ thông qua, công nhận ý
nghĩa lịch sử của các cuộc tranh đấu và hy sinh anh dũng của nhân dân miền Nam
Việt Nam trong cuộc di tản lớn nhất từ trước đến nay trong lịch sử bằng thuyền
và các phương tiện khác để tìm kiếm tự do và dân chủ bắt đầu từ 45 năm trước, kể
từ ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Nghị quyết cũng nhằm hoan
nghênh những thành tựu và sự đóng góp quan trọng của cộng đồng người Việt kể từ
khi được chính phủ Hoa Kỳ tiếp nhận và tái định cư tại quê hương thứ hai.
Nghị quyết được các dân biểu Alan Lowenthal
(CA-47), Zoe Lofgren (CA-19), và Barbara Lee (CA-13) đồng bảo trợ. (ĐG) [qd]
No comments:
Post a Comment