Winston
Lord
Đỗ Kim Thêm dịch
01/05/2020
Lời
Người Dich: Các điểm thoả
thuận chính trong Hiệp Định Paris là ngưng mọi cuộc giao tranh, Hoa Kỳ rút quân
trong vòng 60 ngày; QĐNDVN được ở lại miền Nam; Hà Nội trao trả các tù binh Hoa
Kỳ; VNCH và MTGPMN hoạt động trên lãnh thổ của mình; khu phi quân sự là một lằn
ranh tạm thời và không được quốc tế công nhận theo luật quốc tế.
Nhìn chung, CSBV và MTGPMN có ba thắng lợi: Một là,
toàn bộ binh sĩ Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam; hai là công nhận sự hiện diện của
140.000 quân của QĐNDVN ở miền Nam và chính phủ “ma” MTGPMN; ba là quy chế khu
phi quân sự sẽ không đuợc luật quốc tế công nhận và không ai can thiệp khi vi
phạm.
VNCH phải chịu thất bại nặng nề, vì không có tiếng
nói chính thức trong hội nghị. Hai mục tiêu duy trì binh sĩ Hoa Kỳ để tiếp tục
hỗ trợ QLVNCH chiến đấu và trục xuất binh sĩ CSBV ra khỏi miền Nam đều không có
kết quả.
Hoa Kỳ thắng lợi vì mang binh sĩ hồi hương, một lối
thóat trong danh dự của Nixon mà Kennedy và Johnson không đạt được. Hà Nội phải
công nhận VNCH là một thực thể chính trị để đối thoại, phải từ bỏ yêu sách một
chính phủ liên hiệp không có chính quyền Thiệu tham gia.
Ngoài ra, trong cùng lúc, khi bang giao với Liên Xô
và Trung Quốc cải thiện, Hoa kỳ làm giảm đi các áp lực quốc tế và quốc nội
trong cách giải quyết vấn đề Việt Nam.
Trong mật ước với Hà Nội, Nixon hứa sẽ viện trợ tái
thiết cho CSBV và sẽ không hành quân trên lãnh thổ Lào và Campuchia. Nixon lo
âu về mật ước với Tổng thống Thiệu trong việc tiếp tục ủng hộ cho VNCH, vì QĐNDVN còn đóng tại miền Nam là một
đe doạ lớn và việc tiếp tục ném bom miền Bắc là khó khả thi.
Sau khi người lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam và Hà
Nội trao trả 580 tù binh, Hoa Kỳ không còn lý do để tiếp tục ủng hộ cho VNCH. Dù
CSBV có nhiều vi phạm Hiệp Định, nhưng công luận không còn quan tâm. Trong giai
đoạn này, hai khái niệm chính yếu cho Hoa Kỳ là Hoà bình và Danh dự.
Kissinger không quan tâm đến vận mệnh tương lai của
miền Nam, tiên đoán sẽ có một khoảng cách thích hợp cho việc đình chiến và sự sụp
đổ của VNCH. “Nếu có may mắn, chế độ Sài Gòn chỉ sống sót được trong vòng một
năm rưỡi”. Thật ra, Kissinger đã bị Lê Đức Thọ lừa đảo toàn diện. Dù tiên
đoán Hà Nội không tôn trọng Hiệp Định, Kissinger không chuẩn bị các biện pháp
ngăn chặn hậu quả tàn khốc. Đây là câu hỏi quan trọng cần Kissinger biện minh.
Trong các cuộc thảo luận về sau và ngay trong bài phỏng vấn dưới đây, Kissinger
tiếp tục đổ trách nhiệm cho quyền định đoạt số phận của người miền Nam, Nixon
trong vụ Watergate và Quốc hội không tiếp tục viện trợ.
Hầu hết người
miền Nam nguyền rủa Kissinger là một kẻ cơ hội vì đem Hiệp Định làm
một món quà triều cống cho Trung Quốc, đây là sự hạ mình đầy sĩ nhục đã vượt
quá giá trị sống còn của người miền Nam, một tác hại nghiêm trọng về mặt đạo đức.
Khi Kissinger né tránh trách nhiệm đạo
đức cá nhân, không muốn biện minh cho những sai lầm trong Hiệp Định, những
tội ác của ông tại Việt Nam là vô đạo đức, ghê tởm, khó quên, không thể tha thứ.
Trong những năm gần đây, báo chí và công luận thế giới
biết nhiều chi tiết hơn về những gì mà Kissinger đã làm trong Hiệp Định. Tại
Việt Nam, thế hệ tham chiến lần lượt ra đi và thế hệ trẻ không quan tâm xem lại Hiệp
Định, sự căm giận về những tội ác của Kissinger chìm trong quên lãng.
***
Sự đồng thuận chung quyết
đã vượt qua mọi ước vọng và yêu sách của giới phản chiến. Kể từ đó, có hai khẩu
hiệu đòi hỏi cứng rắn vẫn còn: Hoà ước là đã muộn màng. Nixon và Kissinger có
thể đã đạt được kết quả sớm hơn. Hiệp định là đạo đức giả vì cả hai đã biết là
sẽ thất bại sau một khoảng thời gian nhất định.
Nói một cách khác, lẽ ra
cả hai nên thực hiện thỏa thuận sớm hơn là vì không bao giờ đạt đuợc tốt hơn.
Đây là sự thật: Ngay từ đầu, Bắc Việt bác bỏ các khuôn khổ của thoả thuận sau cùng và
các đề xuất cụ thể. Họ kiên quyết là chúng ta làm sụp đổ chính phủ Sài Gòn
trong khi rút quân. Cuối cùng, vào mùa thu năm 1972, trước các triển vọng nhiệm
kỳ bốn năm tiếp theo của Nixon, họ bỏ qua các yêu sách chính trị và đồng thuận
cho các đề nghị đầu tiên của Mỹ về một giải pháp thuần tuý quân sự.
Trong khi không mang ảo
tưởng nào về mục tiêu của đối phương, chúng tôi tin rằng thông qua việc chấp
hành lệnh ngưng bắn, viện trợ cho Sài Gòn, khích lệ kinh tế cho Hà Nội, yểm trợ
của Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa do những quyền lợi của chính họ, Hiệp định Paris có
thể sẽ được duy trì.
Nixon và Kissinger tin rằng,
tất cả yếu tố này sẽ đem lại cho người miền Nam “một cơ hội hợp lý” để xây dựng
tương lai, cho đến khi nào Mỹ còn mang trách nhiệm. Tuy nhiên, bởi vì Mỹ không
giữ lời hứa, chúng ta sẽ không bao giờ biết chắc, liệu Đồng Minh của chúng ta
có khả năng sử dụng cơ hội hợp lý này không.
***
Winston Lord: Chuyện gì
đã thay đổi trong khoảng thời gian từ đầu năm cho đến cuối năm 1972, khi cuối
cùng Bắc Việt nhượng bộ? Cái gì đã gây cho họ làm như vậy?
Henry Kissinger: Đầu năm 1972, Hà Nội bắt đầu cuộc Tổng tấn công miền Nam, thực tế là
họ đưa toàn bộ quân đội vào Nam. Hồi đó, chúng ta đã rút các đơn vị Bộ binh, chỉ
còn để lại các đơn vị Không quân và Hải quân. Miền Nam phải chống lại các cuộc
công kích bằng cách dựa vào quân đội của mình. Do đó, đây cũng là một thử thách
cho việc Việt Nam hóa chiến tranh. Nixon cho tăng cường các lực lượng Không
quân, nhất là bằng máy bay ném bom B- 52. Sự phối hợp cả hai biện pháp này đã
đánh bại được cuộc tấn công của Bắc Việt và thực tế là gây tổn hại cho Bắc Việt,
các căn cứ do họ chiếm đóng trong chiến tranh nay bị tái chiếm.
Vào tháng 10, họ đồng thuận
các đề nghị tháng Giêng của chúng ta. Chúng tôi cho là họ suy yếu trầm trọng, sẽ
không thể đánh bại miền Nam, trừ khi với một cuộc tấn công bằng tổng lực, và là
Đồng Minh chúng ta sẽ kháng cự. Trong trường hợp bị tổng tấn công, chúng ta sẽ
hỗ trợ miền Nam, nhưng nói chung, động lực thúc đẩy chủ yếu để bảo vệ miền Nam
phải nằm trong tay người miền Nam.
*
Winston Lord: Vào tháng
Mười, chúng tôi tạo được bước đột phá. Đối với chúng tôi, dường như là Bắc Việt
đọc được một tài liệu dự báo triển vọng Nixon sẽ thắng cử và Georg McGovern
thua và họ phải tiên liệu sẽ chịu thêm bốn năm nữa với con người Nixon điên loạn
này.
Henry Kissinger: Để hiểu Hiệp định Paris, chúng ta cần chú ý các trình tự diễn tiến để
chúng tôi đạt được các điều kiện này. Ngay từ thời gian đầu của chính quyền
Nixon, chúng tôi quyết định theo một chính sách là tuần tự rút quân, tăng cường
cho quân đội miền Nam, và cuối cùng, đạt đến thoả thuận là tất cả các lực lượng
Mỹ triệt thóai. Người Việt sẽ có khả năng đảm nhiệm việc tự bảo vệ, ngoại trừ
trường hợp bị các cuộc tổng công kích. Trong diễn tiến của các cuộc đàm phán,
chúng tôi lần lượt thu ngắn khoảng cách thời gian giữa thoả thuận và rút quân,
nó phù hợp với quân số mà chúng ta đã rút và sự ước lượng về khả năng của miền
Nam.
Các điều kiện này bị thu
hẹp liên tục. Thoạt đầu, chúng tôi ấn định khoảng thời gian cuối cùng là 16
tháng, và đầu năm 1972, dự kiến thời gian rút quân là hai tháng. Trong điều kiện
cơ bản mà chúng tôi không bao giờ thay đổi là dân Việt Nam phải có một khả năng
hợp lý để tự định đoạt số phận.
Có một vài cơ hội khác
nhau mà chúng tôi đã nghĩ rằng, sắp đạt được thoả thuận. Thật ra, chúng tôi đã
giải quyết một vài điểm phụ thuộc, ngoại trừ một vấn đề là cấu trúc chính trị của
miền Nam là chưa rõ ràng. Như đã nói, vào tháng 10 năm 1972, sau khi thất bại
trong cuộc tấn công của họ, do Bộ binh Việt Nam và Không quân Mỹ, trong cuộc họp
vào ngày 6 tháng 10 năm 1972, Lê Đức Thọ nói rằng, ông có một đề xuất mới, chấp
nhận toàn bộ đề xuất công khai của Nixon đề ra vào tháng Giêng trước đó. Theo
đó, việc duy trì chính phủ Sài Gòn được tương thuận, trong thời kỳ hòa bình, miền
Nam được xem như là một thực thể chính trị và trong các điều kiện này, Mỹ sẽ
rút quân. Đó là bước đột phá quan trọng.
Sau đó là thời gian
thương thuyết cấp bách về các điểm chi tiết của hiệp định, trong đó Bắc Việt
tương nhượng nhiều điểm, bởi vì trong thời điểm này, chúng ta thắng trong trận
địa chiến theo ý nghĩa là Bắc Việt không bao giờ có triển vọng đánh bại được
chính phủ Sài gòn với lược lượng mà họ có tại miền Nam. Chúng tôi ý thức rằng
duy trì hiệp định sẽ cực kỳ phức tạp, vì miền Nam khó kiểm soát một biên giời
dài và kẻ thù thâm nhập. Thật ra, chúng tôi tin rằng hiệp định bảo đảm cho người
miền Nam, những người mà sự sinh tồn chính trị của họ do chúng ta bảo vệ, sẽ
duy trì về tình hình an ninh của họ trong tương lai.
Như Winston đã nói, Bắc
Việt thấy rõ là họ sẽ phải chịu đựng làm việc với Nixon trong bốn năm tới.
Trong từng chủ điểm, Nixon đã cho thấy rằng không chấp nhận thất bại.
*
Winston Lord: Như vậy, Bắc
Việt thay đổi quan điểm vì hai lý do, một mặt là vì họ bị đánh bại trên trân địa
chiến, và mặt khác, họ thấy rõ là Nixon sẽ tái đắc cử.
Henry Kissinger: Họ nóng lòng hơn để cho chiến tranh kết thúc trước cuộc tái tranh cử,
vì họ nghĩ rằng, trong bốn năm sau sẽ không có thay đổi. Mặt khác, chúng tôi
cũng bị áp lực kết thúc chiến tranh, vì chúng tôi biết rằng dù Nixon thắng cử,
Quốc hội sẽ do đảng Dân chủ chiếm đa số và đề tài trọng tâm của Quốc hội là cắt
giảm các chuẩn chi cho Việt Nam.
*
Winston Lord: Cuối cùng,
trong mọi trường hợp, chúng ta đạt được thoả thuận chung quyết, nó tốt đẹp hơn
những gì mà phần lớn giới phê bình cho là khả thi. Ông có thể vạch ra các nét
chính về những điều khoản của hòa ước này?
Henry Kissinger: Các đề xuất làm khai thông của chúng tôi, mà cuối cùng trở thành nội
dung chính của hòa ước, bị các phương tiện truyền thông chế giễu là hoàn toàn
không thành tựu và là một bằng chứng cho sự kiên quyết theo đuổi chiến tranh của
Nixon. Thật ra, như tôi đã mô tả, nhờ vào tiến trình đàm phán, chúng tôi đạt được
những điều kiện tốt hơn là hy vọng. Sự khác biệt giữa những đề xuất vào tháng 5
năm 1971 của chúng tôi và những gì mà cuối cùng đạt được hầu hết là về mặt hình
thức.
Hà Nội tương nhượng trong
điểm chính là, chính quyền Sài Gòn tồn tại và không thay đổi do kết quả của đàm
phán. Mỗi sự thay đổi như vậy, cho dù như thế nào đi nữa, phải thể hiện ý chí của
dân tộc Việt Nam. Chính phủ đang tồn tại sẽ tiếp tục nhiệm vụ như đã là và sẽ
là một thành phần chính yếu trong việc thực thi hòa ước. Đó là sự nhượng bộ
chính.
Mùa thu năm 1972, lần đầu
tiên, chúng tôi có một lợi thế phân tích. Trước kia, Hà Nội luôn nhận định một
cách rất chính xác là dân Mỹ thiếu tinh thần kiên trì, nó đã buộc chúng tôi phải
triệt thoái. Do đó, họ có bốn năm dài chỉ lo đàm phán, để nhằm kéo dài cuộc chiến,
cho đến khi nào họ có thể tự quyết định kết thúc chiến tranh bằng một cuộc tổng
tiến công.
Sau đó, Mỹ bày tỏ lòng
kiên định nhiều hơn là Bắc Việt chờ đợi. Đột nhiên, họ lo sợ rằng những gì sẽ xảy
ra khi Nixon tái thắng cử. Đầu tháng 9, họ lo cho việc thoả thuận một thời biểu
chấm dứt chiến tranh, dù trước đó, các áp lực của họ là hoàn toàn đối nghịch.
Chúng tôi có ưu thế trong ý nghĩa là họ sợ Nixon tái đắc cử.
Chúng tôi biết rằng, ngay
cả khi tái đắc cử, Nixon cũng mất đa số trong Quốc hội, khi tất cả các cuộc
thăm dò dư luận cho thấy, Quốc hội bỏ phiếu quyết định cho chúng ta kết thúc
chiến tranh, cho dù việc gì sẽ xảy ra và Nixon sẽ làm như vậy. Do đó, cả hai
phía cố gắng kết thúc chiến tranh trước cuộc bầu cử. Nhưng trong thời điểm này,
ưu thế tranh cử của Nixon quá to lớn đến độ mà các lý do nội chính không còn là
vấn đề cần thiết.
*
Winston Lord: Ngoài ra,
Tổng thống không thoả thuận một hòa ước không hoàn chỉnh chỉ nhằm để tái đắc cử.
Hơn thế nữa, ông không cần việc này. Đúng, giới phản chiến cho là ông sẽ đồng ý
với tất cả mọi điều kiện để cho ông được tái đắc cử. Đúng như vậy.
Henry Kissinger: Trước hết, Nixon không quan tâm đến các chi tiết. Trong lúc đàm phán,
Nixon không ra các lệnh chi tiết cho tôi. Khi thoả thuận đạt được, chúng tôi
cho Bắc Việt biết là Nixon còn phải phê duyệt văn bản và ông đã đồng thuận.
Nhưng ông đã đồng ý nét đại cương của bản văn khi chúng tôi bắt đầu. Đó chính
là cách mà Nixon và tôi hợp tác. Chúng tôi đồng thuận trên các nguyên tắc,
Nixon không đề ra các suy đoán riêng cho từng động thái trong tiến trình. Cuối
cùng, dĩ nhiên, ông hành xử vai trò của một Tổng thống cho việc chấp thuận
chung quyết.
Những gì mà chúng tôi đạt
được trong cuộc đàm phán này, các phong trào hòa hình cho chúng tôi biết, đây
là chuyện không thể có trong hai năm. Chúng ta hãy nhìn thành tích này. Trong
các cuộc đàm phán chung quyết, chúng ta đã không có bất cứ các nhượng bộ quan
trọng nào.
*
Winston Lord: Cho đến
tháng 10 năm 1972, ông đã đạt được mục tiêu của ông trong các cuộc đàm phán.
Đâu là các đặc điểm chính của Hiệp định Paris? Tại sao ông cho rằng nó thành
công? Tại sao ông nghĩ cuối cùng nó không thành công?
Henry Kissinger: Vâng, chúng tôi nghĩ là chúng tôi đã đạt được mục tiêu chính. Ông hãy
nhớ lại những gì tôi đã chỉ ra. Chúng ta giải quyết được ít nhiều cho mức độ
rút quân Mỹ. Nhưng các mục tiêu chính mà tất cả các cuộc đàm phán trước đây đã
thất bại là Hà Nội kiên quyết rằng, trước khi mọi diễn tiến hòa bình có thể khởi
động, kể cả ngay trước khi họ nói chuyện vấn đề phóng thích các tù binh Mỹ,
chính quyền Sài Gòn phải sụp đổ. Sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn là điều kiện
tiên quyết trong các điều kiện khác đối với các nhà thương thuyết của Hà Nội.
Trong cuộc họp tháng Mười, họ đã thay đổi việc này.
*
Winston Lord: Khi ông đạt
được thoả thuận sau cùng, ông có tự tin là là thoả thuận này sẽ thành công?
Henry Kissinger: Ông hãy để cho tôi giải thích các điều khoản của Hiệp định tháng
Giêng năm 1973 là gì. Có một cuộc ngưng bắn và cấm chỉ việc xâm nhập. Sau đó,
chỉ có việc miền Nam nhận được tân trang thay thế cho các vũ khí đã có sẵn
trong nước bị thiệt hại hay phá hủy. Một toán thanh tra của Liên Hiệp Quốc kiểm
soát việc thi hành này. Tình trạng quân bình không thể bị đảo ngược chỉ trừ khi
là do việc thâm nhập bất hợp pháp.
Chúng tôi tin rằng, do
các điều khoản này, miền Nam sẽ có thể chống lại bất cứ lực lượng quân sự nào
còn lại trong nước. Và chúng tôi sẽ hỗ trợ cho họ trong trường hợp tổng tấn
công, có nghĩa là, một sự vi phạm tất cả các điều khoản chính yếu.
Ngoài ra, còn có một cơ
chế quốc tế kiểm soát việc du nhập các trang bị mới cho Việt Nam chỉ được thực
thi thông qua các điểm kiểm soát của Liên Hiệp Quốc chấp thuận. Các điều khoản
này áp dụng cho cả hai phía. Cùng lúc, chúng tôi chấp thuận nguyên tắc là Hoa Kỳ
sẽ viện trợ kinh tế cho Bắc Việt, chúng tôi quan niệm rằng đây là các phương tiện
kiểm soát cho việc duy trì hiệp định. Thật ra, Nixon gởi tôi tới Hà Nội vào
tháng 2 năm 1973 để thương thuyết một phần chi tiết trong toàn bộ chương trình
viện trợ kinh tế.
*
Winston Lord: Viện trợ
cũng mở rộng ra cho Nam Việt Nam, Lào và Cambodia.
Henry Kissinger: Vâng. Mọi điều khoản trong hiệp định cũng áp dụng cho Lào và
Cambodia. Bắc Việt quan niệm rằng các lực lượng Cộng sản tại Lào và Cambodia là
tự trị và không thể luôn bảo đảm rằng các đơn vị này sẽ tuân theo các mong muốn
ưu tiên của Hà Nội. Sau đó, chúng tôi phát hiện rằng, có lẽ là việc nào nếu
đúng cho trường hợp Cambodia, thì hoàn toàn không có nghĩa là đúng cho Lào.
Ngoài ra, các viện trợ
kinh tế xem như là động lực khích lệ cho Bộ Chính trị Hà Nội, mang lại việc tái
thiết kinh tế cho họ, thay vì phá huỷ hiệp ước. Chúng tôi hy vọng việc này cùng
với nhiều yếu tố khác, thí dụ như nếu Trung Quốc và Liên Xô cùng quan tâm đến
việc kềm chế Bắc Việt, viện trợ Mỹ sẽ đóng góp trong việc duy trì hiệp định.
Ngoài ra, trong thời gian
này, chúng tôi thu thập thêm kinh nghiệm để nhận ra rằng tình trạng căng thẳng
Nga-Hoa là cực kỳ nghiêm trọng và trong mọi trường hợp, Trung Quốc không muốn
huy động thêm quân sự cho Đông Dương. Chúng tôi quan niệm rằng, tất cả các yếu
tố này sẽ đưa đến một kết quả hợp lý để chúng tôi đạt mục tiêu kết thúc chiến
tranh mà ba chính phủ Mỹ của hai đảng đã theo đuổi, bằng cách chúng tôi tạo một
cơ hội sống sót cho một chính phủ đồng minh mà họ đã dựa vào chúng ta. Đó là mục
tiêu chính của chúng tôi.
*
Winston Lord: Hiệp ước
đã bị phê bình, vì có các băng ghi âm tìm ra, cho rằng ông có nói đến “một khoảng
thời gian hợp lý“. Ông có thể giải thích việc này có nghĩa là gì?
Henry Kissinger: Trước tiên, chúng ta phải nhớ là, có nhiều cuộn băng thu âm các cuộc
thảo luận của chúng tôi, và khi nó đưa ra cho công chúng, thường là không bao
giờ nói rõ là nó nằm trong bối cảnh nào. Có các cuộc trao đổi với người Hoa, với
nhân viên của tôi, với Nixon. Các đề tải chủ yếu làm cho chúng tôi quan tâm là
Mỹ phải có nghĩa vụ bảo vệ miền Nam trong thời gian vô hạn định không? Bất kể đến
việc chính quyền của họ có tham nhũng hoặc có hiệu năng trong việc điều hành
hay không?
Quan điểm của chúng tôi
là muốn tạo một cơ hội sống còn hợp lý cho người miền Nam. Những gì mà chúng
tôi cho là “hợp lý”, chúng tôi không bao giờ định nghĩa một cách chính xác.
Chúng tôi không bao giờ sử dụng nó như một cái mưu kế để thoái thác, để miền Bắc
chiến thắng miền Nam mà chúng tôi không bị bẩn tay. Chúng tôi quan tâm là có một
cơ hội sống còn đích thức cho người miền Nam. Chúng tôi sẽ giúp họ xây dựng
quân đội và viện trợ kinh tế. Chúng tôi cũng lưu tâm đến một tình trạng tương tự
như Nam Hàn phát triển sau chiến tranh Triều Tiên.
Hiện nay, chúng tôi không
bao giờ đề cập chính thức là trong bao nhiêu năm, chúng tôi chỉ ngồi bên nhau
và nói là: “Hãy để chúng ta đưa ra một thỏa thuận rằng họ có thể bị lật đổ dễ
dàng, và chúng ta sẽ đánh lừa công luận Mỹ“. Khi nói về chữ “hợp lý”, chúng
tôi muốn nói là chúng tôi tự tin và có thể nói cho dân Mỹ là chúng ta tạo cho
Việt Nam có một cơ hội thực sự. Chúng tôi nghĩ chúng ta đã đạt được, việc này
thường đuợc trình bày như là một loại chuyện lừa đảo. Chúng tôi đã chiến đấu
trong nhiều năm để bảo vệ danh dự cho chính sách ngoại giao của Mỹ và chính
nghĩa cho tự do. Chuyện này còn nhiều hơn là chuyện liên quan đến Việt Nam.
Khi ông theo dõi thế giới
trong năm 1969, Liên Xô vừa chiếm Tiệp Khắc, và sau đó hơn 40 sư đoàn Liên Xô
đóng quân ờ biên giới Trung Quốc. Chúng tôi lo sợ một cuộc tấn công trước mắt tại
Trung Quốc, nó sẽ làm đảo ngược hoàn toàn tình trạng quân bình quốc tế. Chúng
tôi muốn một hiệp ước bảo vệ uy tín của chúng tôi như là trụ cột chính gìn giữ
cho nền hòa bình thế giới.
*
Winston Lord: Nhưng chuyện
gì đã thất bại? Ông đã tạo những động lực khích lệ cho miền Bắc để họ tôn trọng
hiệp ước, cũng giống như cho miền Nam, Lào và Cambodia?
Henry Kissinger: Đó là một bi kịch đất nước mà chúng ta chưa vượt qua. Trong những năm
của thập niên 1950 khi tôi còn là sinh viên ban Cao học, 90% của trường Harvard
là nằm trong tay đảng Dân chủ, tình trạng còn duy trì và có lẽ tăng lên. Nhưng
khi xuất hiện các thành viên nội các thuộc đảng Cộng hoà từ trường Harvard, họ
được vô cùng trân trọng. Trong những cuộc thảo luận chính trị tại Mỹ trong thập
niên 1950 và 1960, chuyện quan tâm là tính cách phù hợp trong các chính sách
chính trị. Đến một lúc nào đó trong những năm của thập niên 1960, những cuộc thảo
luận chính trị này biến dạng thành các đề tài thuộc về các động lực của giới
lãnh đạo và sự phù hợp về đạo đức nội tại của họ.
Vấn đề trở thành thời thượng
khi cáo buộc tổng thống và các thành viên trong nội các là đại biểu cho một hệ
thống vô đạo đức, để chống lại thì những cuộc biểu tình bạo động đủ các loại,
không chỉ coi là được phép mà còn là cần thiết. Khuynh hướng này nhằm dập tắt
các quan điểm đối lập, nó trở thành một quan điểm chiếm ưu thế. Tổng thống
Johnson không thể xuất hiện công khai, chỉ nói chuyện tại các căn cứ quân sự, để
cho các cơ sở tình báo lo các biện pháp bảo vệ an ninh. Trong khi đàm phán, vấn
đề quan trọng tại Mỹ là chúng tôi không khởi động các cuộc thảo luận mà dân
chúng quan tâm đến các vấn đề chính trong cuộc chiến. Trong các cuộc thảo luận
trong công chúng, Nixon được xem như là một tên gian ác thay thế cho Johnson,
hiếu chiến muốn kéo dài cuộc chiến.
Thật ra, khi ông xem các
văn kiện, ông sẽ thấy chính quyền Nixon rõ ràng là hầu như chấp nhận tất cả các
đề xuất đã làm phân hóa đảng Dân chủ trong năm 1968. Chúng tôi hỗ trợ ít nhiều
cho một chiến lược hòa bình của Hubert Humphrey, ứng viên tổng thống, trong Đại
hội đảng năm 1968. Năm 1968, đảng Dân chủ không chủ trương Mỹ đơn phương rút
quân. Nhưng trong từng bước, các yêu sách của giới đối lập trong nước Mỹ lên
cao điểm đến độ cuối cùng họ đồng loạt yêu cầu Mỹ đơn phương rút quân và phóng
thích các tù binh của chúng ta.
Kết thúc chiến tranh chỉ
duy nhất là để chỉ có việc nhận được các tù binh phóng thích, vấn đề trở thành
một trò hề cho các việc diễn ra, những gì chính phủ Truman khởi động, Kennedy
tăng cường, Johnson tăng tốc và Nixon tiếp tục.
*
Winston Lord: Ngoài ra, giới phản chiến không chỉ muốn rút quân
đơn phương để được phóng thích tù binh, mà thật ra làm sụp đổ chính phủ Sài Gòn
khi chúng ta ra đi.
Henry Kissinger: Vâng. Khi chúng ta đạt thoả thuận vượt quá mọi mong đợi. Chúng tôi nghĩ Quốc
hội sẽ ủng hộ để duy trì hiệp định. Chúng tôi không biết liệu là việc này có thể
khả thi hay không. Nhưng vụ Watergate chôn vùi uy tín của Tổng thống đến độ mà
các quan điểm cực đoan trong Quốc hội thắng thế. Hiệp định có hiệu lực vào
tháng Giêng năm 1973. Và đến tháng Sáu năm 1973, chuyện rõ ràng là Bắc Việt vi
phạm trầm trọng. Chúng tôi yêu cầu Lê Đức Thọ đến Paris gặp một lần nữa để duyệt
xét các vi phạm. Nhưng trong khoảng từ tháng Giêng đến tháng Sáu năm 1973, Quốc
hội đề ra hằng loạt biện pháp cấm đoán việc sử dụng các lực lương quân sự Mỹ
trong hoặc gần Đông Dương.
Vì vậy, chúng tôi mất khả
năng thi hành hiệp định. Ngoài
ra, có một cuộc tấn công toàn diện vào các phương tiện chuẩn chi khả thi khác để
cho phía người miền Nam không bao giờ có một chính phủ đủ khả năng sinh tồn như
chúng ta có thể kỳ vọng như trước các tình hình của cuối năm 1972. Cuối cùng, Quốc hội ra lệnh cấm
chúng tôi tham chiến, cấm sử dụng các lực lượng quân sự Mỹ trong và gần Việt
Nam và chấm dứt mọi viện trợ cho Cambodia để chúng ta rút lui. Sau
đó là kết thúc của vấn đề.
*
Winston Lord: Thí dụ như Quốc hội không phải
chỉ cấm ném bom mà còn cắt giảm viện trợ quân sự.
Henry Kissinger: Quốc hội không những chấm dứt hoàn toàn viện trợ quân sự cho
Cambodia, mà còn giới hạn viện trợ quân sự cho Sài Gòn một cách nghiêm trọng.
Cho đến năm 1973, họ có các kế họach chung quyết. Có một thoả thuận ngầm giữa
Nghị sĩ John C. Stenis, Chủ tịch Ủy ban Quân vụ Thượng Viện, và Tỗng thống
Nixon, là năm 1975 Quốc hội sẽ thuận chi một ngân sách bổ sung để bù đắp các
khiếm khuyết trong việc chuẩn chi trước đây. Năm 1975, Nixon từ chức và cuối
cùng Quốc hội từ chối các chuẩn chi này. Do đó, miền Nam phải bớt phần các kho
đạn dược để có thể còn sử dụng trong trường hợp có các cuộc tiến công sau cùng.
*
Winston Lord: Như vậy,
cuối cùng, chúng ta không tuân thủ các điều khoản của Hiệp định. Ông cảm thấy
như thế nào?
Henry Kissinger: Quốc hội đặt
chúng tôi vào trong một vị thế không thể thi hành Hiệp định.
*
Winston Lord: Dù điểm yếu
của quân đội miền Nam là gì đi nữa, đó cũng là một thất bại về tâm lý khi họ
không nhận thêm bất cứ quân viện nào, chưa kể đến các thất bại vật chất, gây ảnh
hưởng chủ yếu.
Henry Kissinger: Ý nghĩ cho rằng lãnh dạo một chính sách đối ngoại dựa trên uy tín của
Mỹ, hiện nay, theo quan điểm thông thường, chỉ làm cho bị chế nhạo. Nhưng đó là
một yếu tố chính trong chiến tranh Việt Nam, là vì các đồng minh tiềm năng hay
thực tế và các dân tộc bị đe doạ phải ước lượng tương lai của mình khi dựa vào
thành quả của Mỹ tại Việt Nam.
*
Winston Lord: Trong khi
ông cố duy trì Hoà ước cho Việt Nam, Quốc hội làm việc này theo các hành động
riêng. Hai việc này có tác động khác không?
Henry Kissinger: Hiện nay, khi các nước được bảo chứng bởi các lời hứa hẹn của Mỹ hay
các liên minh, họ có thể không cỏn tin tưởng nơi Mỹ. Như vậy, các lực lượng
trong các nước nghĩ đến việc sụp đổ các định chế hiện hữu mà họ nghĩ rằng được
bảo vệ bởi các các mối quan hệ thân hữu liên minh với Mỹ, họ đã bạo dạn hơn khi
gia tăng các áp lực của họ.
____
Nguyên tác: Breakthrough and the Paris Accords, Chapter VII, pp.
75-87 in: Kissinger on Kissinger
Winston Lord là Trợ lý đặc
biệt cho Cố vấn An ninh Quốc gia (1970-1973), Giám đốc Nhân viên Hoạch định
Chính sách của Bộ Ngoại giao (1973-1977), Chủ tịch Hội đồng Quan hệ Đối ngoại
(1977-1985), Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc (1985-1989), và Trợ lý Bộ trưởng Ngoại
giao (1993-1997).
Lord đã cộng tác với báo
New York Times, Washington Post, Wall Street Journal, Newsweek và Foreign
Affairs. Sách mới nhất là Kissinger on Kissinger Refections
on Diplomacy, Grand Strategy, and Leadership. All Points Book New York,
2019.
____
Bài liên quan: Richard Nixon, Henry Kissinger và Sự Sụp Đổ Của Miền Nam (BS).
No comments:
Post a Comment