Phạm Đình Trọng
29/07/2019
Liền
hai tháng giữa năm 2019 đất nước ta, nhân dân ta mất đi ba nhà văn hóa tên tuổi,
ba tâm hồn lớn. Cuối tháng sáu, ngày 26, mất nhà văn, nhà khoa học giáo dục Phạm
Toàn. Giữa tháng bảy, ngày 14, mất nhà toán học Hoàng Tụy. Cuối tháng bảy, ngày
28, mất nhà khoa học địa chất, nhà khoa học chính trị và nhà thơ Nguyễn Thanh
Giang.
TS Nguyễn Thanh
Giang. Nguồn: FB nhân vật
Là nhà văn hóa, nhà khoa học đích thực nên Phạm
Toàn, Hoàng Tụy, Nguyễn Thanh Giang cùng những trí tuệ lớn, những tâm hồn đẹp của
tinh hoa Việt Nam như Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Hoàng Minh Chính, Hà Sỹ Phu,
Nguyễn Gia Kiểng… còn là những nhà tư tưởng khai sáng cho nhân dân trong tăm tối
của thống trị cộng sản.
Đã có nhiều bài viết chân thực, xúc động của nhiều
trí thức, nhiều tên tuổi về tài năng, trí tuệ và nhân cách Phạm Toàn, Hoàng Tụy.
Không tiếp cận được đầy đủ trí tuệ và những đóng góp to lớn của nhà văn hóa Phạm
Toàn đã mang lại triết lí giáo dục đúng đắn và sức sống mới cho nền giáo dục nước
nhà đang suy vi, tôi cũng có hai bài viết về con người nghệ sĩ Phạm Toàn.
Nhà giáo Phạm Toàn.
Nguồn: VNE
Mười lăm năm trước, lí tưởng dân chủ đưa tôi đến gặp
Tổng biên tập tờ đặc san Tổ Quốc Nguyễn Thanh Giang. Từ đó tôi có nhiều kỉ niệm,
có thêm hiểu biết về một tài năng quí, một nhân cách đẹp để tôi càng gần gũi,
yêu quí Nguyễn Thanh Giang như một người anh. Tôi không thể không viết về người
anh thân yêu đó. Nhưng tôi không thể dứt ra khỏi mạch tư duy của một bài viết
đang dang dở.
GS Hoàng Tụy. Nguồn:
Người Quảng Phía Nam
Để món nợ bài viết về anh Nguyễn Thanh Giang trong
tim nhưng tôi phải thưa ngay rằng trên đất nước thân yêu của chúng ta, nhiều
công trình, cơ sở văn hóa, nhiều vùng đất, nhiều đường phố đang phải mang những
cái tên đen tối, những cái tên đọc lên phải rùng mình ghê sợ. Trong khi chúng
ta có nhiều tên tuổi sáng đẹp lại không được người đời ghi nhớ.
Những người
mang thảm họa cộng sản về tàn phá đất nước, li tán dân tộc, giết hại người dân
Việt Nam đã trở thành những nhà lãnh đạo đất nước độc tài gây nên một thời đẫm
máu bạo lực chuyên chính vô sản. Những kẻ cuồng tín giáo điều, hôn mê hận thù
giai cấp, say máu chuyên chính vô sản đã mang thuốc nổ gài vào giữa cuộc sống
bình yên của thành phố nhộn nhịp đông vui đã được nhà nước chuyên chính vô sản
tôn phong là những anh hùng. Tên những nhà lãnh đạo độc tài và tên những anh
hùng khủng bố đã trở thành tên gọi nhiều nơi chốn trên đất nước Việt Nam hôm
nay.
Những cái tên mang nợ máu với dân, là tội đồ của lịch
sử Việt Nam sẽ được lịch sử công bằng và nghiêm khắc phán xét, sẽ bị đời đời
lên án phải bị loại bỏ khỏi đời sống văn hóa đất nước để thay bằng những tên tuổi
là niềm tự hào của tâm hồn, trí tuệ và khí phách Việt Nam như Trần Độ, Nguyễn
Kiến Giang, Nguyễn Hộ, Trần Lâm, Lê Hiếu Đằng, Hạ Đình Nguyên…
Vì vậy sẽ có phố Phạm Toàn, trường đại học Hoàng Tụy
và đường Nguyễn Thanh Giang. Và đường Nguyễn Thanh Giang chính là đường Trung
Văn thuộc Từ Liêm, Hà Nội hiện nay, nơi có nhà số sáu khu tập thể Địa Vật Lý,
nơi nhà khoa học Nguyễn Thanh Giang đã sống những năm tháng sôi động đầy ý
nghĩa và đã viết để lại cho mai sau những tác phẩm mang dấu ấn tài năng của tâm
hồn và trí tuệ Nguyễn Thanh Giang: Nhân Quyền Và Dân Chủ Ở Việt Nam, Suy Tư
Và Ước Vọng, Giữa Đông Và Tây, Sứ Mệnh Công Dân, Những Mẩu Quặng Dọc Đường, Đêm
Dày Lấp Lánh, Người Đội Số Phận.
-----------------------------------
XEM THÊM
"Sống trong một đất nước mà những kẻ tổ chức
làm bạc giả đang ở địa vị cầm quyền, khi khám phá ra những đồng tiền giả - lẽ
ra - ông Nguyễn Thanh Giang không nên tri hô (ầm ĩ) lên như vậy."
*
Qua bán tuần san Thời Báo Kinh Tế VN - số ra ngày 3
tháng 4 năm 99 - phó tiến sĩ Nguyễn Hữu Hải, có phát biểu rằng “nghèo
đói thường gắn liền với phong tục tập quán lạc hậu, với địa hình nơi cư trú…” Điều
ông Hải nói đúng nhưng không đủ. Tuy nhiên, ông ta không nói hết lời, cố tránh
đề cập đến nguyên nhân của sự nghèo đói ở VN một cách rõ ràng hay rốt ráo hơn.
Cũng trong số báo này, khi được hỏi “liệu năm 1999 số
hộ đói có giảm so với những năm trước hay không?” - Thứ Trưởng Bộ Thương Binh
Xã Hội VN, ông Đàm Hữu Đắc đã trả lời: “Nếu tình hình thời tiết không
có đột biến xấu như hai năm 1997, 1998 thì tình hình nghèo đói ở Việt Nam trong
những năm 1999 và những năm tiếp theo sẽ giảm đáng kể.”
Khác với ông Hải, ông Đắc nhấn mạnh đến thiên tai
(chứ không phải phong tục tập quán) như là nguyên nhân chính gây ra nghèo đói.
Tương tự như ông Hải, ông Đắc cũng (“né”) không muốn nói đến nhiều nguyên nhân
khác - và là nguyên chính - đã gây ra sự bần cùng, khốn khó cho xứ sở của mình.
Trước đó hai hôm - báo Nhân Dân số ra ngày 1 tháng 4
năm 99, tại Hà Nội - có đăng bài xã luận “Thực Hiện Tốt Tổng Điều Tra
Dân Số Và Nhà Ở Trên Cả Nước.” Người viết (không ký tên) đề cập đến tất
cả mọi vấn đề liên quan đến việc điều tra dân số thực hiện năm đó, trừ mỗi một
chuyện - và chuyện này lại được tiết lộ ở một tờ báo khác (báo Thời Luận, số ra
ngày 24 tháng 3 năm 99, tại Los Angeles, Hoa Kỳ) qua hình thức một mẩu tin ngắn,
nguyên văn như sau:
“Ngày 23 tháng 3 năm 99, ông Erick Palstar, Trưởng Đại
Diện Quĩ Dân Số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam cho biết vào lúc không giờ
ngày 1 tháng 4 năm 99 Việt Nam sẽ tiến hành cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở.
Công việc này lại tiếp tục được đài thọ bởi Liên Hiệp Quốc, và- vẫn theo lời
ông Erick Palstar - đây là một trường hợp ngoại lệ chưa từng có trong lịch sử.
Chưa có quốc gia nào cần phải được Quĩ Dân Số Liên Hiệp Quốc giúp tới ba lần
liên tiếp với lý do là không có khả năng tài chánh để thực hiện một mình.”
Khác với ông phó tiến sĩ Nguyễn Hữu Hải, ông thứ trưởng
Đàm Hữu Đắc, tác giả bài báo vừa dẫn lờ luôn mọi chuyện có liên quan đến sự thiếu
thốn và yếu kém của cái xã hội mà mình đang sống. Tuy nhiên, tựu trung, cả ba
nhân vật kể trên đều có điểm này giống hệt nhau: họ ăn nói, viết lách hết sức
dè chừng và cẩn thận, cứ y như những kẻ luôn luôn bị rình rập hay đe dọa bởi những
bóng ma vô hình lẩn quất quanh mình.
Đây là một trong những nét đặc trưng trong đời sống
hàng ngày của cả dân tộc Việt, từ nhiều thập niên qua, chứ không riêng một giới
người nào. Tất cả đều ý thức, một cách thường trực, về những điều cấm kỵ của xã
hội mà họ đang sống, những sự thực cần được che giấu, hay những nhân vật không
thể đụng đến. Đó là một hình thức ta bu mới, và là ta bu giả, vừa được áp đặt
vào xã hội Việt Nam - hơn nửa thế kỷ qua.
Từ “ta bu” (taboo - tapu) có nguồn gốc từ quần đảo
Polynesia. Nó có nghĩa là sự nghiêm cấm hoặc sự giới hạn chặt chẽ mọi đụng chạm,
hiểu theo nghĩa đen, với một số đồ vật hay nhân vật đặc biệt - trong những hoàn
cảnh đặc thù nào đó (Gollier Multimedia Encyclopedia, 1997).
Ta Bu hiện diện ở mọi nơi, nhưng thường chỉ có vai
trò rõ nét ở những xã hội sơ khai - nơi mà luật chưa thành nên cần lệ để duy
trì trật tự tối thiểu và cần thiết cho những sinh hoạt của cộng đồng. Có những
cấm kỵ rất phổ biến, được chia sẻ bởi hầu hết mọi nơi, như sự loạn luân hay ăn
thịt đồng loại. Cũng có những điều cấm kỵ rất đặc thù, chỉ hiện diện ở một số
dân tộc hay bộ tộc. Có nơi, mọi sự đụng chạm đến thầy mo hoặc tù trưởng của bộ
lạc đều bị nghiêm cấm. Cá nhân nào vi phạm đến sự cấm kỵ này đều có thể bị tai
họa vào thân (Compton’s Encyclopedia On Line V3.01, 1998).
Theo truyền thống, ta bu thường có tính tự phát và
được sự đồng thuận (có thể là một cách vô thức) bởi mọi thành viên vì lợi ích
chung của cộng đồng. Chúng ta sống trong một thời đại mà ta bu có thể được
“sáng tạo” bởi một cá nhân hay một tập thể lãnh đạo, và được mang áp đặt vào xã
hội - bằng mọi cách - cho phù hợp với đường lối cai trị hay quyền lợi của giai
cấp thống trị. Tương tự như tiền giả, ta bu giả vẫn có thể được xã hội chấp nhận
cho đến khi... bị phát hiện!
Ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN có thể được coi là những
thí dụ tiêu biểu, minh thị cho chuyện những ta bu giả ở đất nước này. Ngay sau
khi nắm được quyền bính, họ tự tạo ra một số những ta bu và áp đặt trên quần
chúng. Họ nghiễm nhiên đều trở thành những nhân vật bất khả xâm phạm - the
untouchables, nếu nói theo ngôn ngữ Mafia của thời đại chúng ta. Mọi va chạm đến
họ đều bị ngăn cấm, và nghiêm trị. Sự nghiêm trị này có thể kéo dài nhiều thế hệ,
dựa theo lý lịch. Đấy là điều mà những vị tù trưởng bộ lạc (và những trùm Mafia
tân thời) đều không thể tưởng tượng nổi, chứ đừng nói chi đến chuyện thi hành.
Để đối phó với sự dụng chạm thường xuyên của quần
chúng với những ta bu (giả), ngày 20 tháng 6 năm 61, nhà nước ban hành nghị quyết
số 49NQ/TVHQ. NQ này, do Trường Chinh ký, cho phép ủy ban nhân dân thành phố và
các tỉnh bắt giam vào trại tập trung tất cả những thành phần bất mãn với chế độ,
hoặc khó thích ứng với XHCN. Thời gian tập trung được qui định trên văn bản là
3 năm nhưng thường kéo dài từ 9, 12, 15 năm hay lâu hơn nữa.
Một trong những nạn nhân tiêu biểu của Nghị Quyết 49
là nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Ông bị ở tù (dài dài) vì đã không ngần ngại “đụng”
đến những ta bu của thời đại mình, dù đụng rất nhẹ nhàng, bằng những câu thơ mộc
mạc:
Miếng thịt lợn chao ơi là vĩ đại.
Miếng thịt bò vĩ đại gấp hai.
Gạo muối, chanh đường, lạc bắp, ngô khoai…
Đảng rớ tới bỗng nhiên thành vĩ đại!
Sau đảng, tới Bác:
“Không có gì quí hơn độc lập tự do”
Tôi biết thằng nói ra câu đó.
Tôi biết nó, cả nước này biết nó.
Việc nó làm, tội ác nó ra sao?
Sau khi ông Hồ chết (hay còn gọi là “đi chơi xa”, nếu
muốn nói một cách cẩn tắc theo tinh thần ta bu của thời đại mới) những người kế
tục không ai tạo được một uy thế như kẻ tiền nhiệm nên những ta bu liên quan đến
vị chủ tịch Đảng - với thời gian - mất dần hiệu lực. Bác Hồ mất nhưng Đảng còn.
Những ta bu liên quan đến Đảng không hề mất theo hay thay đổi, nếu chưa muốn
nói là còn trở nên “khắt khe” hơn - ít nhất thì cũng là trong thời gian Bác Thọ
và Bác Duẩn “chưa khuất núi.” Bởi vậy nhiều vụ đụng chạm cũng như trừng phạt vẫn
tiếp tục xẩy ra, và với thời gian người ta ghi nhận là có sự gia tốc về vấn đề
này - nhất là kể từ khi đảng CSVN không còn giấu được rằng đối với nó không có
gì quí hơn là quyền lợi của chính mình.
Nạn nhân mới nhất, vì đã đụng chạm những tabu của đảng
CSVN là ông Nguyễn Thanh Giang. Vụ việc này, theo tường trình của BBC, nghe được
hôm 19 tháng 4 năm 2005, như sau:
“Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang, một nhân vật bất đồng
chính kiến có tiếng ở trong nước, cho đài BBC biết ông đang lo lắng về an ninh
của bản thân sau khi nhận được những lời đe dọa của một số người được coi là cựu
chiến binh… Phản ứng giận dữ của những cựu chiến binh này, theo ông Giang, xảy
ra vì họ phẫn nộ rằng ông đã gọi cuộc chiến chống Mỹ của Việt Nam là phi
nghĩa.”
Sau Thế Chiến Thứ Hai, khi phong trào giải thực lan
rộng trên toàn cầu (và việc trao trả độc lập cho những quốc gia bị trị trở
thành một xu hướng không thể đảo ngược ở khắp mọi nơi) đảng CSVN vẫn cố tạo ra
một cuộc chiến “đánh đuổi thực dân để giành độc lập”. Sau đó, họ tiến hành một
cuộc chiến tranh chống xâm lược (giả) khác bằng cách bắt ép nửa phần dân tộc Việt
đi chém giết nửa phần còn lại.
Trong cả hai cuộc chiến (rất) “thần thánh” và (hoàn
toàn) không cần thiết đó, họ đều thắng lợi một cách vẻ vang. Chỉ có những kẻ bị
bắt ép hay bị lừa gạt phải lao vào lửa đạn (và thân nhân của họ) là đại bại.
Tuy thế, họ không cho phép bất cứ ai được nói ra điều này. Khi lên tiếng
rằng: “Cuộc chiến chống Mỹ vừa qua thực sự là vô nghĩa đối với cả Việt Nam và
Hoa Kỳ” là ông Nguyễn Thanh Giang đã phạm vào điều cấm kỵ, đã đụng chạm tới ta
bu của thời đại mình - một thứ ta bu giả.
Sống trong một đất nước mà những kẻ tổ chức làm bạc
giả đang ở địa vị cầm quyền, khi khám phá ra những đồng tiền giả - lẽ ra - ông
Nguyễn Thanh Giang không nên tri hô (ầm ĩ) lên như vậy. Có ai lại thiếu tế nhị
đến thế, hả Giời?
No comments:
Post a Comment