31/07/2019
Hè năm ngoái tôi có dịp nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một tuần
ở Huyền Không Sơn Thượng. Đây là ghi chép của tôi trong thời gian ở trong tu viện.
Ghi chép lan man, không có nội dung gì đặc biệt, nhưng tôi muốn chia sẻ với nhiều
người vì thời gian sống trong tu viện đã thay đổi tôi phần nào, có lẽ theo hướng
tốt hơn.
Huyền Không Sơn Thượng là một thiền viện nằm trong địa
bàn của huyện Hương Trà. Tu viện nằm sâu trong rừng, trên độ cao vừa phải. Tu
viện lúc đầu là nơi Minh Đức Triều Tâm Ảnh chọn làm nơi lánh xa thế nhân, khi
đó là đồi trọc hoang vu. Sau này, nhiều sư trẻ xin về theo, trong đó có sư Chơn
Tín. Lúc đầu thầy Tâm Ảnh không nhận họ, nhưng họ quyết ở lại giúp thầy trồng
cây, làm ruộng … Sau hai mươi mấy năm, xung quanh thiền viện đã hình thành một
cánh rừng nguyên sinh. Ở trên cao là thông, phía dưới là keo, xung quang chùa
và thiền viện có nhiều tre, trúc, bàng, lộc vừng và nhiều cây cảnh.
Anh Bi, anh Linh và anh Thuyết đưa tôi đến thiền viện
chiều thứ hai 6/8/2018. Trên đường đi, anh Thuyết dừng xe ở phố buôn bán để anh
Bi xuống mua cho tôi mấy gói mì đề phòng khi đói. Anh Bi chỉ kém anh Thuyết hai
tuổi nhưng luôn gọi anh Thuyết là thầy. Anh Bi vốn là hiệu trưởng trường chuyên
cấp hai Nguyễn Tri Phương là người có nhiều quan hệ và biết tổ chức sắp xếp
công việc. Mọi việc lớn nhỏ của cộng đồng nhỏ các anh toán ở Huế đều do anh Bi
sắp xếp. Anh Thuyết vì là thầy của anh Bi, và cũng là người có học vị cao nhất
nên nghiễm nhiên là thủ lĩnh của nhóm. Lúc mới gặp, tôi không thích anh Thuyết
lắm, có lẽ vì mái tóc nhuộm đen nháy của anh. Tôi có cảm tình với anh Hiếu ốm
nhách hơn. Chơi với nhau lâu, tôi yêu quý tất cả các anh. Các anh luôn mong tôi
vào Huế để các anh đưa đi chơi, đi ăn, uống ca phe nói chuyện toán. Dần dần tôi
cũng thích chia sẻ thời gian của mình với các anh.
Trước khi đi, tôi có để số điện thoại của anh Thuyết
cho mẹ tôi để mẹ liên lạc khi có việc gấp vì có thể mạng di động không phủ đến
khu vực của thiền viện. Không bất ngờ lắm khi mẹ tôi gọi ngay cho anh Thuyết để
dặn dò và nhờ anh mua cho tôi mấy thứ thuốc mà do vội tôi không mang đi. Mẹ tôi
là như thế, một nỗi lo nho nhỏ trong đầu có thể làm bà bồn chồn, và phải giải
quyết triệt để nó thì mới có thể nghĩ đến việc khác. Đặc biệt khi nỗi lo đó
liên quan đến con trai của bà.
Thầy Chơn Tín đợi chúng tôi ở Am Mây Tía. Thầy Chơn
Tín dáng vóc phương phi, ít cười, nhưng vẻ mặt toát ra sự khảng khái, chân thực.
Thầy phổ biến cho tôi một số nội quy cho cuộc sống trong thiền viện. Ở đây, các
sư tụng kinh hai lần mỗi ngày, một lần lúc 4:30 sáng khi vừa ngủ dạy, một lần
lúc 6:00 chiều, xong rồi mọi người về am cốc của mình nghỉ ngơi. Chùa nấu cho
ăn vào buổi sáng và buổi trưa. Ở đây các sư theo Phật giáo nam tông, có thủ tục
đi xếp bát khất thực. Khi đi khất thực người ta cho ăn gì phải ăn nấy, cho nên
các sư ăn mặn, không ăn chay. Thầy Chơn Tín đã để sẵn trong cốc nhiều mì gói,
bánh quy, sữa đề phòng đói bụng vào buổi tối. Sau đó thầy phăng phăng xách cái
va li nhỏ và đưa tôi về cốc.
Cốc là một ngôi nhà nhỏ, nằm trên vách núi. Các sư
trẻ ở trong khu nhà chung. Các sư tu tập lâu ngày ở trong cốc như vậy. Cốc tôi ở
gọi là Cốc Sư Thiện. Sư Chơn Hạnh, em trai của sư Chơn Tín nói với tôi rằng sư
Thiện đã vào miền nam. Để đi lên Cốc Sư Thiện phải dò theo những bậc đá gập ghềnh
mà các sư đẽo vào núi. Leo chừng ba mươi bước thì đến một tấm đá nhẵn thín, bắc
ngang qua ao cá nhỏ uốn vòng quanh cốc. Ao nhỏ nhưng nước rất trong. Trong đó
có ếch, nhái, rắn nước và những con cá nhỏ sống. Xung quanh ao, sư Thiện trồng
nhiều cây dương xỉ, một loài cây tôi mà tôi ưa thích. Ở bên trái am còn có một
bụi trúc vàng, thân trúc vàng óng, khoẻ mạnh. Chếch góc ao, có cả một cây chuối
rất đẹp. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cả buồng chuối và hoa chuối. Thông thường ở
các loài cây khác, hoa rụng thì mới kết quả. Cây chuối của sư Thiện mang một buồng
chuối đã chín lắm, màu đã chuyển sang đen xì, vậy mà ở cuống của nó vẫn còn một
bông hoa chuối rất tươi.
Cốc có hai phòng. Phòng trong là phòng ngủ, có cả điều
hoà nhiệt độ. Phòng ngoài có một cái bàn đá màu trắng để thưởng trà và đọc
sách. Ở góc phòng có một cái bàn nhỏ nơi thầy Chơn Tín đã xếp đủ sữa, nước, mì
gói, bánh quy cho tôi đủ dùng cả tháng. Sau khi chia tay anh Bi, anh Linh và
anh Thuyết, tôi đóng cửa và suy nghĩ mình sẽ làm gì với thời gian năm ngày ở
trong thiền viện. Vào lúc đó, tôi để ý thấy ba quả thị mà thầy Chơn Tín để lại
cho tôi ở trên cái bàn đá. Cầm một quả thị lên ngửi thấy hương thật thơm. Tâm
trí tôi bỗng trở nên thanh thản lạ lùng. Tôi tự bảo mình thay vì việc đặt ra
cho mình một thời gian biểu chặt chẽ, hay là tôi cứ ngồi đây ngắm ba quả thị,
dõi theo quá trình biến đổi của nó. Bây giờ còn đang tươi tắn, thơm hương như
thế, năm ngày nữa thì sẽ thế nào.
Chiều hôm đó, tôi đi bộ dọc theo con đường mòn vào
sâu trong rừng trước giờ tụng kinh. Đi đường bị muỗi cắn khắp người mới sực nhớ
ra rằng mình vào rừng ở mà quên không máng thuốc sức chỗng muỗi. Đường khó đi,
thỉnh thoảng lại có cây đổ ngang đường. Ven đường có các cốc còn đang xây dở.
Không quá lâu, con đường mòn đẫn đến một cái cốc khá khang trang, trồng nhiều
hoa theo hàng lối. Ngại làm phiền, tôi không dám đi xuyên qua cái cốc đó để xem
đường mòn còn tiếp tục hay không.
Trở lại sân chùa trước giờ rung chuông, tôi thấy một
Tỳ kheo tươi tắn, đi cùng hai con chó đi đến chào. Sư tự giới thiệu mình là
Chơn Hạnh, em trai của sư Chơn Tín. Chơn Hạnh hỏi tôi có thiếu gì trên cốc
không. Tôi nói không hiểu sao trên đó không có màn, mà có nhiều muỗi quá. Chơn
Hạnh nói muỗi rừng ra nhiều tầm 5-6 giờ, trước giờ tụng kinh. Sau giờ đó chúng
về rừng, đêm không cắn người. Tôi nghe lạ quá vì muỗi ở Hà nội cắn người bất kể
giờ giấc. Nhưng quả thật đêm đó tôi ngủ ngon, không bị muỗi cắn. Ngồi đọc sách ở
trong cốc chỉ bị muỗi đến quấy vào đầu giờ sáng và cuối giờ chiều.
Chuông trên tháp gióng độ 10 phút thì một tỳ kheo bắt
đầu thỉnh chuông trong chánh điện. Các tỳ kheo khác lục tục về chỗ mình ngồi.
Tôi được xếp ngồi ở góc bên phải cùng các novice. Các sư đọc kinh pali chừng 15
phút rồi chuyển sang ngồi thiền. Tiếng tụng kinh pali của các tỳ kheo vảng vào
đầu tôi như ngọn gió Tây nóng và khô thổi sạch đi những bụi bặm, ẩm ướt lưu cữu
lâu ngày trên bề mặt của tâm hồn. Đèn phụt tắt khi các tỳ kheo đưng tụng kinh để
thiền. Tôi cố bất động thân và tâm, tập trung theo dõi nhịp thở nhưng vì gối
tê, lưng mỏi, tâm phiêu diêu, tôi cảm thấy mệt mỏi muốn đứng dạy chi sau 10
phút. Vì không muốn làm xáo trộn sự tập trung của các tỳ kheo, tôi cố chịu đau
ngồi đến cùng. Tôi nhận ra rằng học thiền cơ bản là phải kiên nhẫn, chứ không cần
nỗ lực gò ép mình quá đáng. Đến cuối tuần, tôi có thể ngồi được lâu hơn, không
còn cảm giác đau mỏi như hôm đầu. Tâm vẫn khởi lên những suy nghĩ này nọ, nhưng
nó cũng mau quay lại với nhịp thở hơn.
Buổi tụng kinh và thiền ở chánh thất kết thúc sau 7
giờ tối. Lúc đó ngoài trời đã tối đen. Lúc đấy tôi mới nhớ tới điều anh Bi nói
lúc chia tay: đáng ra phải mang cho Châu cái đèn pin. Không đợt tôi hỏi, thầy
Chơn Tín vào Am mây tía lấy cho tôi mượn một cái đèn pin. Nhờ vào nó tôi mới dò
dẫm đi về cốc của mình.
Đêm ở trong rừng không hề yên tĩnh như ta nghĩ. Chỉ
về đêm ta mới thấy rừng là nơi trú ngụ của trăm ngàn sinh linh. Ồn ào nhất là
tiếng ễnh uông. Nó kêu như tiếng thanh tre gõ lên một dãy ống tre, từng đợt
cách nhau chừng nửa phút. Bắt nhịp là một tiếng chim, hơi thảng thốt, nhưng vì
rất đều đặn, nên không gây ra cảm giác bi ai. Con ễnh uông và con chim nhỏ hoà
tấu với nhau như thế cho đến lúc toàn bộ dàn nhạc rừng oà lên cùng một lúc để rồi
lại lặng đi ngay. Trong đêm rừng tối đen, ta chỉ còn thính giác để tiếp nhận
các tín hiệu của rừng. Tâm hồn ta lắng xuống trong cảm giác dễ chịu đã được rừng
tiếp nhận, dường như đã trở thành một phần hữu cơ của rừng.
Điện thoại reo báo thức lúc 4 giờ sáng để chuẩn bị
đi tụng kinh lúc 4:30. Không đủ can đảm để chui ra khỏi giấc ngủ say để xuyên rừng
đi lên chánh điện, tôi duỗi chân ngủ tiếp. Khi tỉnh dạy thì trời ở ngoài đã
sáng. Tôi cố tìm ra con ếch đêm qua kêu to thế mà không tìm ra. Con ếch duy nhất
mà tôi tìm thấy là con vật tý hon này. Vì một lý do riêng, tôi rất quan
tâm đến loài ếch và rất mong muốn gặp một con ếch với kích thước đủ lớn. Mong
muốn này sẽ được toại nguyện vào ngày cuối cùng tới hai lần.
Tuy không tìm thấy ếch, mục tiêu ban đầu, tôi tìm thấy
một vài con vật rất đáng yêu luôn quanh quẩn cái ao nhỏ nằm trước mặt cốc. Đây
là một con mèo hoang, rất dạn người, sẵn sàng lẻn vào cốc ăn vụng bánh quy của
tu sĩ. Bên cạnh bánh quy, bọn mèo hoang tỏ ra quan tâm đến các con cá bé li ti
bơi trong ao.
Một con vật khác, ít thù địch hơn với loài cá là con
tắc kè. về hình tướng, tắc kè có lẽ là sinh linh khôi ngô nhất mà tôi gặp ở
trong rừng. Nó có cái cổ màu xanh biếc và cái đuôi rất dài.
Điều lạ nhất xảy ra với tôi vào buổi sáng đầu tiên ở
trong chùa là cảm giác trìu mến đặc biệt dành cho con tắc kè này bỗng dưng khởi
lên trong tâm. Lòng trìu mến đó phát triển cả sang con kiến, con muỗi.
Một tâm trạng bình an dần dần định hình trong tôi. Cả
ngày tôi không ra khỏi cốc trừ lúc các chú tiểu gõ kẻng gọi ăn trưa, và cuối giờ
chiều khi chuông chùa gióng lên gọi các tỳ kheo lên chánh điện tụng kinh.
Đây là ngày đầu tiên ở chùa, tôi chủ định chỉ làm
nhưng gì để tạo cho mình cảm giác bình yên, để dành nhưng vấn đề khó khăn phải
suy nghĩ cho nhưng ngày sau. Tôi dành cho mình niềm vui đọc thật kỹ bài báo của
Deligne về giả thuyết Weil, một viên ngọc của toán học hiện đại. Tôi thấy một cảm
giác khoan khoái khi hiểu trọn vẹn lập luận cùa Deligne, khá ngắn gọn, nhưng thật
tinh tế. Định đọc thêm toán nhưng đầu óc cảm thấy hơi mệt nên lại thôi. Thay vì
việc bắt mình làm việc liên tục như thói quen, bây giờ mỗi lúc cảm thấy mệt mỏi,
tôi cho phép mình ngừng lại, ngồi vào tư thế thiền và đếm hơi thở của mình.
Buổi tối sau giờ tụng kinh, sư Chơn Hạnh qua cốc
thăm tôi. Sư mang cho tôi một đôi dép nhựa để đi trong phòng tăm cho khỏi ướt
chân, một chai sữa đậu nành và một ít bánh quy. Sư kể chuyện cốc tôi ở trước là
của sư Thiện, nay sư Thiện đã đi vào Nam. Trong cốc có một giá sách nhỏ, có lẽ
do sư Thiện để lại. Nhìn nhưng quyển sách sư Thiện để lại có thể cảm thấy một
tâm hồn hiền thiện, giản đơn: ngoài quyển sách Phật pháp căn bản mà sau đó tôi
đọc hết trong thời gian ngồi một mình trong cốc, còn có sách tự học tiếng
Trung, tự học đàn guitare, mấy tập thơ Huế … Hôm sau sư Chơn Hạnh mang cho tôi
mượn thêm hai quyển sách của sư trụ trì Minh Đức. Hai quyển đó giảng pháp dưới
hình thưc kể chuyện. Mặc dù không thích lắm thể loại hư cấu tôn giáo, khi rời
tu viện tôi xin phép mang theo một trong hai quyển để đọc trên đường, như một
cách nhớ lại những ngày ở trong tu viện.
Tôi dành ngày thứ ba ở tu viện để suy nghĩ về những
vấn đề còn khó khăn, còn tạo ra những xung đột trong nội tâm. Sự kiện đáng lưu
ý của ngày này là cuộc gặp gỡ với một con nhện gớm ghiếc bò cạnh nơi tôi ngủ. Mặc
dù cảm giác trìu mến dành cho con tắc kè xinh đẹp phần nào lan sang con nhện,
tôi băn khoăn không biết con vật này có nọc độc hay không. Trên đường xuống
chùa, gặp thầy Chơn Phúc, anh trai của thầy Chơn Tín, người luôn niềm nở chào hỏi,
tôi hỏi thầy Chơn Phúc xem nhện ở đây có độc, có căn người hay không. Thầy cười
bảo nhện ở rừng này lành lắm, không độc, không cắn người. Vậy là tôi yên tâm tiếp
tục sống chung với con nhện. Thực ra sau đó tôi không gặp lại nó nữa, trừ một lần
khi đang đọc sách thì thấy buồn buồn ở gáy. Sờ tay thì hoá ra một con nhện khác
đang khám phá khu vực lưng gáy của mình. Tôi búng nhẹ cho nó rơi xuống đất,
không làm nó tổn thương.
Nhớ đến lời khuyên của Phan Việt, tôi lẩm nhẩm đọc
đi đọc lại lời kinh thực hành Thiền tha thứ:
“Vì lâm lạc và không minh mẫn nên tôi đã có những hành động, lời nói, ý
nghĩ sai lầm làm thiệt hại, gây đau khổ cho những người khác, những chúng sinh
khác. Xin tất cả mở lòng từ bi và trí tuệ để tha thứ cho tôi.
Tôi thành thật tha thứ cho những người đã có những hành động, lời nói ý
nghĩ làm thiệt hại và gây đau khổ cho tôi.
Tôi thành thật tha thứ cho chính mình và nguyện từ nay làm lành, tránh dữ,
giữ tâm trong sạch.”
Tuy chưa đi được tới tận cùng vấn đề muốn suy nghĩ tới,
tôi cảm thấy một sự nhẹ nhõm thanh thản nào đó trong tâm hồn, trái với cảm giác
nặng nề u uất thường có. Dường như việc để tâm vào quan sát chính mình một cách
thiện chí, làm cho cái tâm được quan sát có được cảm giác bình an.
Ngày thứ tư ở thiền viện là ngày thứ năm của tuần.
Trời mưa nặng hạt từ rạng sáng. Con đường lên xuống cốc trở nên trơn tuột. Xuống
cốc khi chạng vạng vào giờ ăn sáng lúc trời mưa nặng hạt, tôi phải dò từng bước
để khỏi ngã. Khi vừa vượt qua đoạn tưởng chừng nguy hiểm nhất, chỗ cầu thang
làm bằng những phiến đá xếp nhấp nhô nghiêng ngả và dốc, khi đến đoạn cầu thang
tưởng như bằng phẳng hơn, thì trượt chân. Mưa tiếp diễn cả buổi sáng. Chìm đắm
trong suy nghĩ của mình nên quên giờ xuống chùa ăn trưa làm cho Chơn Hạnh phải
mang một suất ăn lên cốc.
Trời ngớt mưa sau giờ trưa. Cảm thấy suy nghĩ của
mình bắt đầu đi vòng quanh, tôi chợt nảy ra ý muốn đi bộ. Nhìn trên bản đồ
google thi thấy gần thiền việc có một cái hồ, tôi đặt nó làm đích cho cuộc đi bộ.
Ra khỏi cổng thiền viện chưa đến 1km tôi thấy một lối rẽ nhỏ đi về hướng hồ mà
không có trên bản đồ. Đi theo lối đó dẫn tôi đến một khu vực khá tiêu điều, nơi
có hai ngôi mộ cổ hình như bị bỏ hoang, gần một khu vực ô nhiễm hình như để
chôn rác. Trên bản đồ khu vực này đáng ra là một phần của lòng hồ nhưng có lẽ
phạm vi hồ nước đã bị thay đổi. Xa xa có một ngôi nhà dựng tạm bơ, một chiếc xe
máy đặt giữa sân, và một đàn bò con đứng con ngồi dáng vẻ uể oải.
Bỏ lại đằng sau khung cảnh thê lương này, tôi đi
theo một con đường mòn không có trên bản đồ. Dọc con đường mòn có hai, ba cái
lán chỏng chơ. Gặp một người đàn ông chừng ba mươi tuổi, vẻ mặt u uất, làm vẻ
không nhận thấy sự hiện diện của tôi, nhưng khi đi qua thì liếc theo tôi với
ánh mắt dò xét, như có ý đồ. Xung quanh lán có nhiều thùng nuôi ong, và có lẽ
đó là lý do để người đàn ông kia ở đây. Trong đầu tôi xuất hiện một sự lo ngại,
người đàn ông này dường như chẳng có gì để mất trên cuộc đời này nữa. Hắn ta có
thể giết tôi để cướp số tiền tôi đem theo trên người mà không ai biết. Tuy
nhien, Ý nghĩ đấy biến mất khi tôi nhìn thấy lá cờ nhà Phật bay phấp phới bên
những cái lán.
Đi khoảng cây số dọc theo bờ hồ mà không thấy hồ
đâu. Liên tục là rừng keo độc chỉ một loài cây. Sau từng keo là ruộng lúa. Đi
qua một xóm nghèo thì hiện ra một con đê. Con đê này là lý do tôi không nhìn thấy
hồ, hồ nằm ở phía bên kia con đê. Con đê chì còn cách tầm 20 mét nhưng không thể
tiếp cận được. Giữa con đường mòn tôi đi và con đê là một cái đầm nông có sú vẹt,
nước sâm sấp lên đến đàu gối. Loáng thoáng nhìn thấy ở đầu kia con đê có mấy
người đang chạy chơi. Tôi đi về hướng đó. Sự tĩnh lặng của trưa hè chợt bị phá
vỡ bởi động cơ của một chiếc xe máy cũ. Trên xe có hai người, người ngồi trước
tay cầm một cái vợt, người ngồi sau vai đeo một cái ba lô có gì nặng. Chiếc xe
máy đưng phía sau lưng tôi tầm 10 mét. Hai người lội về phía đầm nước. Bây giờ
tôi nhìn thấy cái người kia vác ở trên lưng là một cái ac-qui điện. Đây là hai
kẻ đánh cá bằng điện. Đánh cá bằng điện là một trong những trò chơi ngu xuẩn và
độc ác nhất mà con người tạo ra. Chỉ để bắt một con cá, họ sẽ giết chết hàng
trăm con cá con.
Hết vùng sình lầy thì con đường mòn gặp bờ đê. Bờ đê
xây kiên cố, cứ độ 20 mét lại có nhưngz bậc thang để đi lên trên đê. Từ trên đê
nhìn xuống mặt nước thoáng đáng trải dài đến tận chân núi. Đây là công trình
thuỷ lợi hồ chứa nước Khe ngang. Đang ngắm để thu cả cái không gian khoáng đạt
trước mắt vào cái màn hình điện thoại, thì một người đàn ông trung niên đến gần
nói với tôi: nhờ anh chụp ảnh hộ mấy cháu, điện thoại tối quá không chỉnh được
cho rõ mặt. Phải định thần mấy phút tôi mới hiểu ra yêu cầu của ông ta. Ở phía
dưới chân đê bên hồ một tốp phụ nữ nông thôn đang tạo dáng chụp ảnh kỷ niệm.
Tôi vẫy tay gọi họ lên trên đê. Cái điện thoại rẻ tiền họ dùng để chụp ảnh bị
ngợp bởi ánh sáng ngoài trời cho nên màn hình tối đen. Tôi gợi ý chụp họ bằng
điện thoại của tôi rồi gửi ảnh qua nhắn tin. Lúc đầu các cô còn ngượng, mặt
nghiêm trang như mấy anh lính canh lăng bác. Tôi nói các o nghêm trọng quá chụp
không được. Vậy thôi là đủ để các nàng cười hết cơ số và tôi được một tấm hình
thật ưng ý. Nụ cười ấm áp của những người phụ nữ nông thôn xua đi cái mùi tanh
tanh còn đọng lại trong mũi tôi sau khi gặp hai gã đánh cá bằng điện.
Tôi hỏi làm sao các o có thời gian đi tham quan hồ?
Họ nói hôm nay chúng tôi đi ăn giỗ, ăn giỗ xong phải ra đây chụp ảnh trước khi
đi về nhà các đây vài chục cây số.
Đường về tu viện xa hơn tôi tưởng. Trời nóng hơn,
tuy đâu đây bắt đầu thấy mấy con gió. Sau mấy cây số lên dốc, người tôi mồ hôi
vã ra như tắm. Tuy vậy không cảm thấy mệt, đầu óc cảm thấy vui phơi phới, thảnh
thơi kỳ lạ.
Tôi cảm thấy thấm mệt sau giờ tụng kinh và thiền.
Món bánh quy trở nên khó nuốt nên đành đi ngủ với cái bụng đói.
Ngày thứ năm ở thiền viện và là ngày thứ sáu của tuần,
tôi định dành để suy nghĩ tiếp về cái vấn đề làm mình phiền não, và bắt đầu ghi
chép lại ký ức về những ngày ở đây. Kế hoạch của tôi bị thay đổi. vào giờ thư
giãn sau giờ ăn sáng kho các tỳ kheo ngồi nói chuyện trong Am mây tía, sư Chơn
Tín cho tôi biết buổi chiều mọi người cùng xuống Huyền Không 1 nghe Hoà thượng
Viên Minh giảng pháp.
Hoà thượng Viên Minh là một trong bốn người tu hành
cùng thầy Minh Đức thành lập Huyền Không. Chùa này lúc đầu đặt ở Lăng Cô. Sau
75, chính quyền không cho phép các thầy ở Lăng Cô nữa, vì lý do an ninh, nên họ
phải quay lại Huế. Đó là điểm xuất phát của chùa Huyền Không ở Huế. Sau một thời
gian ở Huế, thầy Minh Đức muốn lánh khỏi nhân tình thế thái nên lên rừng ở. Từ
đó mới có Huyền Không Sơn Thượng.
Sau giờ ăn trưa, trong lúc chờ xe bus đi xuống Huyền
Không 1, tôi ngồi nói chuyện với sư Chơn Phúc. Buổi nói chuyện đó để lại trong
tôi nhiều cảm xúc. Sư Chơn Phúc thuật lại một phần cuộc đời của mình. Thầy vốn
là một tay giang hồ có số má, đã từng đi tù bốn lần, lần cuối do vác dao đi
chém phó công an Nha Trang. Chơn Phúc thuật lại những khoảnh khắc của cuộc đời
mình khi mà cái sống và cái chết chỉ cách nhau một gang tay. Thầy nói thầy đi
tu để trả ơn sâu của thầy Minh Đức, người tu hành có khả năng hiểu được tâm can
của cả những kẻ giang hồ. Sư Chơn Phúc không định đi nghe thầy Viên Minh giảng
pháp vì những lời của thầy Viên Minh tuy cao siêu, nhưng “viễn ly mặt đất” và
không “lọt lỗ tai” giang hồ.
Tôi theo xe của nhà chùa xuống Huyền Không 1 nghe giảng
pháp trong tình trạng tâm lý mệt mỏi sau giờ nói chuyện với sư Chơn Phúc. Thời
tiết nóng và ngột ngạt làm những chuyện khó chịu nhỏ trở thành rào cản để tâm
trí thực sự lắng nghe. Sư MC mất gần nửa tiếng sắp xếp cử toạ theo thứ bậc tu
hành, các tỳ kheo ngồi trước, tiếp theo là các sư sari, chỉ có hai hàng ghế
phía sau là dành cho các phật tử. Sau đó một người của ban tổ chức bê cái lọng
mầu vàng đặt bên phía phải khán đài đi, để rồi quay lại từ phía trái khán đài,
che nắng cho Hoà thượng Viên Minh đi lên bục giảng pháp. Thầy Viên Minh giảng rằng
bản chất của việc tu tập là làm thay đổi nhận thưc và hành vi, và bản chất của
giác ngộ là đạt được nhận thức đúng và hành vi tốt. Khi đó là đến niết bàn, con
người được giải phóng khỏi khổ đau và phiền não. Thầy nói đấy là lý do vì sao cuộc
đời với nhưng khổ đau của nó chính là trường học để con người giác ngộ.
Trong phần Q&A, đợi đến cuối giờ khi không còn
ai giơ tay đặt câu hỏi, tôi mạo muội hỏi thầy Viên Minh điều làm tôi bứt rứt
trong giờ giảng pháp. Câu hỏi của tôi là lòng từ bi có đóng vai trò gì trong
quá trình giác ngộ hay không. Câu trả lời của thầy rứt khoát đến mức làm cho
tôi ngạc nhiên. Thầy nói rằng nếu hiểu từ bi như lòng yêu thương thì đó là một
cản trở cho quá trình giác ngộ. Yêu thương hay căm ghét đều cản trở quá trình giác
ngộ. Cũng như lý trí hay tình cảm cũng cản trở sự giác ngộ.
Phải chăng yêu thương, căm ghét đều là những ảo giác
do tâm tạo ra?
Tôi cảm thấy khá suy sụp sau giờ giảng pháp, không đủ
sức để đi tụng kinh nữa. Về đến cốc, tôi cố đi ngủ từ 6 giờ tối để thoát khỏi cảm
giác buồn nôn và cơn nhức đầu.
Tôi tỉnh dạy lúc hai giờ sáng với cảm giác khoan
khoái và minh mẫn lạ thường. Kịp tắm rửa để chuẩn bị tham gia buổi tụng kinh sớm
lần đầu tiên.
Trên đường đi xuống chùa, tôi bất chợt cảm thấy ướt ở
bên đùi trái. Cái ươn ướt bỗng chốc chuyển từ đằng trước đùi ra đằng sau. Đập đập
vào chân thì một chú ếch rơi ra khỏi ống quần. Nhìn chú ếch chui từ chân mình
ra tạo cho tôi một sự hứng khởi đặc biệt.
Đây là buổi sáng cuối cùng của khoá tu này. Sau khi
ăn sáng, tôi ngồi lại Am mây tía ăn nhãn và trò chuyện với các tỳ kheo. Tôi cảm
ơn họ đã tiếp nhận tôi trong những ngày qua ở thiền viện.
Sau đó tôi quay lại cốc, dọn dẹp đồ đạc và lau chùi
nhà cửa sạch sẽ. Khác với mong đợi, tôi không cảm thấy vui hay buồn khi nhìn ba
trái thị đã khô héo. Biểu hiện của sự vô thường không còn tạo cho tôi cảm xúc
gì đặc biệt.
Lúc xỏ chân vào giầy chuẩn bị xuống cốc, toi thấy có
cái gì như một cục đất rất to rơi vào giầy. Té ra là một con cóc cụ. Tôi tạm biệt
cốc và con cóc với một niềm vui phơi phới trong lòng.
Khi đi xuống núi, tôi lẩm nhẩm lời dạy của Phật:
“Con hãy là hải đảo của chính mình, là nơi nương tựa của chính mình,
không có nơi nương tựa nào khác”.
“Con hãy là hải đảo của chính mình, là nơi nương tựa của chính mình,
không có nơi nương tựa nào khác”.
No comments:
Post a Comment