Bùi
Bích Hà
February
28, 2018
Hơn
hai mươi năm trước, một buổi sáng mờ sương, tôi lái chiếc Corolla cũ đi làm
trên đường Euclid hướng về Bolsa. Nhà cửa, hàng phố hai bên vỉa hè còn yên ắng,
xe của những công nhân đi làm ca sớm lưu thông thưa thớt và tôi đang lơ mơ nghĩ
về một ngày như mọi ngày.
Thốt
nhiên mắt tôi chạm vào những lá cờ quốc gia màu vàng với ba sọc ngang màu đỏ
bay phấp phới bên cạnh cờ Hoa Kỳ trên các trụ điện thành phố. Tôi cựa mình ngồi
thẳng lên, tỉnh táo, mở mắt to hơn, chạy qua những cái cột điện treo cờ như
trong một cuộc diễn hành kỳ lạ. Cảnh vật nhòe đi trong nước mắt tôi mừng vui
tuôn rơi trên vạt áo, xúc động và hãnh diện thấy mình bỗng nhiên tìm lại được một
thời tươi đẹp ở quê hương.
Tôi
đã không nhìn thấy lá cờ tổ quốc một thời gian thật dài, sau biến cố 30 Tháng
Tư, 1975. Sài Gòn thân yêu của tôi kể từ mốc lịch sử oan khiên, đau buồn ấy đã
oằn mình dưới một rừng cờ đỏ, cuồn cuộn màu chu sa, làm sống lại cái thê lương
trong thơ Trần Dần khi về giữa Hà Nội năm 1954: “Tôi đi không thấy phố thấy
nhà/ Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.”
Tưởng
rằng đã thôi. Đã mất. Đã trăm năm chia tay. Sẽ ngàn năm vĩnh biệt. Một dân tộc
điêu linh. Một đất nước tội tình. Những phận người phiêu bạt lênh đênh không
còn biết đâu là nhà, không còn cả một lá cờ là căn cước để biết chúng ta từ đâu
đến và sẽ đi về đâu?
Thế
nhưng không, lá cờ tổ quốc của tôi vẫn hiện diện cùng đồng hương của tôi trên xứ
sở vĩ đại này. Chúng tôi có cả một lịch sử nhiều ngàn năm văn hiến. Chúng tôi vẫn
còn một điểm hẹn chung để hội tụ, vẫn còn cơ hội nắm tay nhau để cùng hành động
cho một ngày trở về dưới bóng cờ tổ quốc linh thiêng của 90 triệu con dân cùng
một tổ tiên oai hùng. Tôi cực tin rằng lá cờ ấy mang linh hồn của những người
Việt Nam trong mọi cương vị, từng hiến dâng sự sống cho tổ quốc tồn sinh và
cũng như thế cho mọi lá cờ của mọi quốc gia trên địa cầu này. Cho nên, cứ mỗi lần
được nghe bản quốc ca cất lên, lòng tôi không khỏi bùi ngùi và mắt tôi không khỏi
rướm lệ.
Cùng
với ý nghĩa thiêng liêng và to lớn của lá cờ tổ quốc, vào thời điểm rực rỡ nhất
trong lịch sử định cư trên bốn thập niên tại Mỹ của cộng đồng người Việt tị nạn
hải ngoại, tôi tin rằng mỗi thành viên của tập thể lưu lạc ấy đã có lúc cảm thấy
mình hồi sinh với lá cờ tổ quốc tung bay dưới bầu trời này.
Chúng
ta vẫn mang theo nhân thân mỗi người một mảnh vỡ tổ quốc sẽ có ngày hàn gắn lại
như văn hào Voltaire từng viết: “Tổ quốc là tâm điểm cột buộc trái tim chúng
ta.”
Về
sau, vì cộng đồng thiếu một chiến lược nhất quán, vì sự phá hoại thiên hình vạn
trạng của đối phương, vì nỗ lực sinh tồn vừa xói mòn năng lực, vừa làm nguội lạnh
nhiệt tình với đại cuộc ngày càng trôi xa mục tiêu, lá cờ tổ quốc từ vị thế là
đích nhắm cao cả “tổ quốc còn thì con dân còn” đã trở thành phương tiện đấu
tranh được sử dụng tùy tiện trong tay một số người tự cho mình quyền suy nghĩ
và hành động thay cho mọi người, quyết định cả sự an vui của mọi người nhưng thực
tế chỉ tạo ra bầu khí gây chia rẽ, lo sợ, hận thù ngay trong lòng mình và trong
lòng anh chị em một nhà.
Thậm
chí lá cờ tổ quốc là cái nhãn hiệu để nhận ra nhau ở bề ngoài, hệt như cái nhãn
hiệu dán trên một sản phẩm để bảo đảm nguồn gốc và chất lượng bên trong bao bì
thực tế có khi đã thay đổi. Các ông/các anh thắt cà vạt, các bà/các chị quàng
khăn, mặc áo dài có hình tượng cờ tổ quốc, nhịp nhàng, đồng điệu, làm sao biết
được tâm thế đã cách chia, không còn cùng nhau một mối tương đồng?
Từ
đó, phải thú thật, hình ảnh lá cờ tổ quốc trở thành một ám ảnh buồn bã trong
tôi, cả hồn lẫn xác, cho dù ở một nơi sâu thẳm nhất trong tâm tư mình, tôi biết
lá cờ ấy vẫn cháy lên như ngọn đuốc thiêng Thế Vận Hội, mãi mãi được tiếp nối,
được gìn giữ với tràn trề sức sống thanh xuân không bao giờ phai tàn.
Lá
cờ tổ quốc của tôi không ai được làm nhem nhuốc hay có thể lấy đi, bỗng nhiên mất
cả danh xưng mạnh mẽ, oai hùng của nó để nhận lấy cái tên thông tục “cờ vàng ba
sọc đỏ,” làm đau lòng toàn bộ con dân nhà Nam hết thế hệ này sang thế hệ khác,
luôn ngước nhìn, trông vời lá cờ như ngọn hải đăng soi đường để không lạc bước,
như ngôi nhà luôn ao ước trở về dẫu xa xôi cách trở ngàn trùng.
Lá
cờ tổ quốc phủ lên quan tài các tử sĩ hy sinh ngoài chiến trường theo đúng lễ
nghi quân cách, nay phủ lên quan tài những chiến binh không có vinh dự này như
một cách thể hiện giùm cho người nằm xuống mang theo họ giấc mơ hồi hương không
trọn.
Lịch
sử Việt Nam xa xưa đã có giặc cờ đen, cờ vàng, cận đại có đảng Cộng Sản cờ đỏ
sao vàng, là những liên tưởng đầy bóng tối không một công dân nào của tổ quốc
Việt Nam muốn có. Cờ đỏ sao vàng là đảng kỳ của đảng Cộng Sản Việt Nam, chưa
bao giờ chính danh là cờ của tổ quốc Việt Nam có lãnh thổ, có dân tộc, có lịch
sử riêng, hiện nay gồm hơn 90 triệu dân cùng một tổ tông. Lá cờ đó muôn năm cứ
là cờ đỏ sao vàng, không có một danh xưng nào khác. Cùng lắm, chỉ có hơn ba triệu
đảng viên người Việt đứng dưới lá cờ ấy, nhìn nhận nó khi tuyên thệ nhận căn cước
Cộng Sản của họ.
Thấm
thoát, cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản đã rời bỏ quê cha đất mẹ gần nửa thế
kỷ. Chúng ta như những mảnh puzzles của một mô hình kiến trúc lớn bị gió bão
đánh đổ, không tìm được cách gắn ghép vào nhau và ngày càng chông chênh, trôi dạt.
Gần đây, một số khá lớn chúng ta có dấu hiệu mỏi mệt, muốn bỏ cuộc và buông
xuôi theo thời thế. Tuổi trẻ không tin tưởng và ngưỡng phục người lớn trong
cách hành xử nên kính nhi viễn chi. Người lớn thấy năng lực hao mòn cùng tuổi
tác trước viễn ảnh một tương lai vô vọng, cũng muốn dừng chân, gác kiếm, để xem
con Tạo xoay vần đến đâu?
Người
anh hùng bĩ vận Ngô Thì Nhậm có câu đối nghĩa khí: “Thế Chiến quốc, thế Xuân
thu, gặp thời thế thế thời phải thế.” Người Mỹ có nhân sinh quan tương tự:
“If you can not fight them, join them.” Vậy là khôn ngoan, quyền biến,
thức thời. Dù chưa xoay chuyển được thời cơ thì cũng là một cam tâm khí phách,
biết đâu bàn cờ có lúc phá được thế bí?
“Thế
thời phải thế” hay “join them” không có nghĩa là đầu hàng mà chỉ là tạm hòa để
bảo toàn lực lượng và mưu sự. Hơn nữa, là dấn thân khi không còn ai để trông cậy
ngoài chính mình, kiểu “không vào hang cọp, sao bắt được cọp con?” Nghịch lý
trong cả hai trường hợp là sau cùng, kẻ yếu phải cầm được bánh lái để chiến thắng,
nếu không, sẽ là sự thua cuộc trá hình ngay từ đầu, dối lòng, dối người, nào có
ích gì nếu không là tội lỗi?
Trong
cuộc chiến cuối cùng này, vũ khí của chúng ta là lá cờ tổ quốc phấp phới bay
trên các trụ đèn đường của nước Mỹ như nó đã phấp phới bay trên cổ thành Quảng
Trị, thôi thúc chúng ta hãy bền lòng nuôi những giấc mơ và biến chúng thành sự
thật, hãy bền lòng nhớ rằng chúng ta có một cội nguồn, một quê hương để trở về
xây dựng lại. Hãy luôn mang lá cờ ấy trong tâm khảm, đi bất cứ đâu, làm bất cứ
điều gì vì dù có lúc khó khăn, nó luôn chứng minh chúng ta có một lịch sử hào
hùng và đáng hãnh diện.
Hình
như tôi đang mắc cạn trong một thời đại nhiều dối trá, hời hợt, ươn hèn, mỗi
ngày tự ve vuốt mình để quên đi những điều không muốn nhớ. Lâu dần, mọi thứ trở
thành tự nhiên. Tôi thấy mình vật vờ như một sinh vật không có căn tính, một sợi
khói vô định, mờ nhạt, lang thang đi tìm mái xưa trong trời chiều bảng lảng quê
người. Cho nên, tôi thực sự cảm ơn lá cờ tổ quốc linh thiêng cho tôi nơi an trú
trong quãng đời lưu lạc, cho tôi đường hoàng ngẩng cao đầu trả được món nợ đất
nước này đã cưu mang, cho tôi thoát khỏi thân phận kẻ côi cút không nhà cửa,
không gốc gác, trôi sông lạc chợ đến đây như cánh bèo mặt nước.
Mai
kia, nếu phải gửi xác ở chốn này, tôi xin được là gió để mãi mãi quẩn quanh ở
các khu kỳ đài của cộng đồng người Việt di tản khắp nơi trên thế giới, lưu dấu
bước chân của một dân tộc chấp nhận trả giá cho lỗi lầm lịch sử và kiên cường đứng
lên, xây dựng lại từ những mất mát và đổ vỡ đau thương bi thảm nhất trên dòng
sinh mệnh của nhân loại cuối thế kỷ 20.(Bùi Bích Hà)
No comments:
Post a Comment