Matthew D Edward
DCVOnline dịch
Posted on November 25, 2017 by editor
Posted in Giáo
Dục — 0
Comments
Cô Nguyễn “Rosie” Nhung, 28 tuổi, một giảng viên
chính sách công tại Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, nói “Phần lớn trong
số 100 đại học hàng đầu trên thế giớ là đại học ở Hoa Kỳ. Lấy dược tiến sĩ ở một
đại học Hoa Kỳ đưa sự nghiệp của tôi tiến xa hơn.”
Nguyễn “Rosie” Nhung, người vừa mới bắt đầu học gạo
để thi tuyển vào bậc hậu đại học (Graduate Record Exam, GRE) với một giảng viên
đồng nghiệp, đã có bằng thạc sĩ về chính sách công từ Đại học Bristol ở Anh và
đã dạy tài chính công cho giới chức chính phủ Việt Nam hơn một năm qua.
Tuy nhiên, gần đây của chính phủ khẳng định đòi tất
cả các giảng viên phải có bằng tiến sĩ đưa đến kết quả là Nguyễn “Rosie” Nhung
bị cắt giờ giảng dạy một cách giảm nghiêm, và nay cô ấy đang muốn học lấy tiến
sĩ ở nước ngoài.
Nguyễn “Rosie” Nhung nghiên cứu về cách các quốc gia
chuyển đổi sang nền dân chủ, coi Hoa Kỳ như một môi trường lý tưởng để theo đuổi
chuyên môn của mình, và hạng các trường đại học, cũng như chương trình tiến sĩ
và các cơ hội tài trợ là các nhân tố chính.
Sinh viên nói chung và các tổ chức giáo dục đồng
tình với cô Nguyễn “Rosie” Nhung. Mặc dù có những tu từ khoa trương trong cuộc
bầu cử ở Hoa Kỳ và sự thất bại của những sắc lệnh của chính phủ trong thời gian
đầu, cha mẹ sinh viên Việt Nam đã quay lại chú trọng đến phẩm chất và giá trị,
điều đó có nghĩa là Mỹ sẽ vẫn là điểm đến hàng đầu cho sinh viên Việt Nam.
Tuy nhiên, giới quan sát trong lãnh vực giáo dục
cũng cảnh cáo rằng các sinh viên ở vùng quê và những sinh viên con nhà giầu mới
cũng quan tâm đến phí tổn – một yếu tố mà Hoa Kỳ có thể thua cuộc đối với các đối
thủ cạnh tranh như Canada, Úc hay Anh và các trung tâm giáo dục khu vực như
Singapore hoặc ngay cả ở những thị trường mới nổi cho sinh viên Việt Nam như nước
Đức.
Những
người ưa hàng hiệu
Việt Nam là một thị trường đầy hứa hẹn cho các đại
lý giáo dục và các trường đại học nước ngoài muốn tuyển sinh viên bản địa. Theo
Viện Thống kê của UNESCO, Việt Nam đã gới 53.546 sinh viên đại học ra nước
ngoài vào năm 2015. Và số liệu từ công ty tin tức thị trường toàn cầu,
StudentMarketing, cho thấy có thêm 5.257 học sinh du học lớp 12 ở nước ngoài.
Tuy nhiên, bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã đưa ra
những số liệu rất khác, nói rằng có hơn 100.000 sinh viên ở nước ngoài – số liệu
công bố năm ngoái của Bộ Giáo dục và Đào tạo là số liệu cho năm 2013, trong đó
Bộ đưa ra số lượng là 125.000.
Mặc dù có nhiều dữ liệu khác nhau, nhưng khuynh hướng
này đang tăng lên. Theo Viện Giáo dục Quốc tế của Hoa Kỳ (IIE), năm 2015/2016
là năm thứ 16 số sinh viên Việt Nam sang du học ở Hoa Kỳ liên tiếp tăng lên.
Và, theo UNESCO, hai điểm đến hàng đầu của sinh viên
Việt Nam là Mỹ, nơi có hơn 16.000 người theo học bậc đại học vào năm 2015 (Bộ
Thương mại Hoa Kỳ cho con số này là 18.722), và tại Úc, có nhiều hơn 12,000
sinh viên Việt Nam được ghi danh theo học trường cao đẳng hoặc đại học.
Pháp đứng thứ 3 (khoảng 5.500 người), tiếp theo là
Anh và Nhật, trong đó có 4.000 và 5.000 sinh viên Việt Nam.
Hà Nội. Nguồn ảnh: Roger Harris
Nhóm tư vấn Boston, trong một báo cáo năm 2013, liệt
kê Việt Nam là nước có “tầng lớp trung lưu phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á”.
Báo cáo nàymô tả lớp nhà giầu mới phân tán khắp mọi miền ở Việt Nam, chứ không
chỉ quy tụ tại các trung tâm đô thị như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, và Văn
phòng Đối ngoại và Khối thịnh vượng chung Anh quốc cũng chia sẻ quan điểm này.
Bản tường trình của FCO về môi trường kinh doanh của
Việt Nam nói, “Các thị trấn ở Việt Nam bây giờ đã đầy những người mua sắm hiểu
biết về hàng hiệu thúc đẩy bới những kỹ thuật tiếp thị tinh vi.” Chính nhận thức
về thương hiệu này đã thúc đẩy cha mẹ sinh viên suy nghĩ đến việc cho con đi học
ở nước ngoài.
Kenneth Cooper, Chủ tịch công ty Access American
Education Vietnam, LLC, nói: “Cả nước, không ai không nhận thức được những điểm
yếu trong hệ thống giáo dục ở đây [Việt Nam].”
Theo các phương tiện truyền thông địa phương, chính
phủ Việt Nam đã đặt ưu tiên cho vấn đề nâng cao phẩm chất giáo dục trong nước,
tuy nhiên số lượng giảng viên đại học đủ năng lực đã không theo kịp tốc độ gia
tăng của sĩ số sinh viên ghi danh.
Ông Lê Đình Hiếu, Tổng giám đốc của Học viện G.A.P.,
một công ty tư vấn du học, nói sự hiểu biết kỹ thuật cũng đã đưa sinh viên nông
thôn vào cuộc,
“Học sinh ở nông thôn bây giờ có thể tiếp cận được
nhiều thông tin … Và chuẩn bị cho kỳ thi SAT, SAT II, [và] cách viết tiểu luận xin học cũng như học sinh ở các
khu đô thị, và chuyện của họ thậm chí còn hấp dẫn hơn đối với giới xét đơn xin
học ở những đại hộc của Mỹ.”
Tuy không có con số chính thức nào, ông Lê Đình Hiếu
nói, nhưng Học viện G.A.P. tin rằng hơn một nửa số cha mẹ gửi con đi học ở nước
ngoài là các doanh nhân ngành dịch vụ. Ông Lê Đình Hiếu nói, 30% khác là nhân
viên quản lý tại các công ty đa quốc gia và phần còn lại là các nhân viên chính
phủ; tuy nhiên ông cũng nói rằng đây là số liệu dựa trên kinh nghiệm của Học viện
G.A.P..
“Đã có một cộng đồng người Việt lớn mạnh ở Mỹ”
Trưởng hợp của cô Nguyễn“Rosie” Nhung phù hợp với tần
lớp đó; cha cô làm việc trong ngành công nghiệp dầu khí, và mẹ cô là nhân viên
kế toán của chính phủ. Bố mẹ cô đã trả tốn phí cho cô học thạc sĩ, nhưng cô dự
định sẽ xin việc phụ giảng dạy để tài trợ cho học trình tiến sĩ của mình.
Tu
từ, chuyển hướng nhận thức
Ngay sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ tháng 11, các
sinh viên quốc tế hiện tại và tương lai trên toàn thế giới đã sử dụng những mạng
truyền thông xã hội để giải toả sự thất vọng của họ trước chiến thắng vào giờ
chót của Trump.
Tại Việt Nam, số người đi tìm các chương trình
du học tại Hoa Kỳ trên Hotcourses – một trang để sinh viên tìm trường học ở nước
ngoài – đã giảm 7,3% trong bốn tháng trước và ngay sau cuộc bầu cử. Trong khi
đó, số lượng tìm kiếm các chương trình đi học tại Anh và Úc vẫn ổn định.
Tuy nhiên, những lo lắng này có thể chỉ là hiện tượng
nhất thời ở Việt Nam. Nhiều người cho rằng cha mẹ sinh viên ít quan tâm đến
chính trị. Cooper của AAE nói rằng một số tổ chức của Canada đang cố gắng “lợi
dụng” những tuyên bố lung tung của Trump để làm giảm nhiệt tình muốn sang Mỹ du
học, nhưng cho đến nay, cha mẹ sinh viên dường như không bị ảnh hưởng.
CEO của Học viện G.A.P nói, “Ngày nay, người Việt
Nam đi khắp nơi.”
CEO của Học viện G.A.P nói,
“Ngày nay, người Việt Nam đi khắp nơi. Các vấn đề
chính trị không phải là yếu tố ảnh hưởng hàng đầu đối với người Việt Nam; yếu tố
tài chính mới quan trọng.”
Ông Lê Đình Hiếu nói thêm rằng đi học gần với một cộng
đồng người gốc Việt ở nước ngoài cũng rất quan trọng đối với cha mẹ sinh viên.
Ông nói tiếp,
“Đã có một cộng đồng người Việt lớn mạnh ở Hoa Kỳ.
Nhiều bậc cha mẹ muốn con cái của họ ở gần một số người thân hoặc bạn bè của họ.”
Tuy nhiên, nghiên cứu của IDP đã cho thấy rằng nhận
thức của người Việt Nam về nước Mỹ là một “môi trường an toàn” đã giảm đi trong
những năm gần đây. Trong khi đó sự hiểu biết rằng các trường đại học ở Canada
có chương trình giáo dục phẩm chất cao đã có tiến bộ.
Varaporn Dhamcharee, giám đốc của IDP khu vực Đông
Nam Á nói, tuy nhiên, các quy định về chiếu khán nhập cảnh của Canada và Úc được
coi là “ít ân cần hơn”. Ông hy vọng, hoàn cảnh hiện nay có thể làm một số thay
đổi suy nghĩ.
Ông Bùi Xuân Tùng, giáo sư chương trình MBA
Executive tại Đại học Hawaii Shidler College ở Honolulu, cho biết sinh viên Việt
Nam có khả năng (nói) tiếng Anh tốt – nhưng khả năng viết là ngoại lệ – và thường
cần sự giúp đỡ thêm để hiểu được tầm quan trọng của việc trích dẫn chính xác vì
hệ thống giáo dục của Việt Nam khăng khăng đòi hỏi lặp lại nguyên văn những dữ
kiện [đã được nhồi nhét].
Ông Bùi Xuân Tùng nói, “Nhưng họ cũng không tệ hơn
các bạn học ở các nước châu Á khác.” Tài chính vẫn là vấn đề then chốt đối với
người dân vùng quê.”
Cooper nói, “Năm gia đình sẽ hỗ trợ một đứa trẻ. Ở
Việt Nam “có nhiều tiền hơn” hơn số liệu thống kê chính thức có thể cho thấy vì
các đại gia đình sẽ tập hợp nguồn lực. Cooper đánh giá thấp việc coi phí tổn là
một rào cản và nhấn mạnh đến sáng kiến mới của Hoa Kỳ ghi tên vào học ở các trường cao đẳng cộng đồng, từ đó họ
sẽ chuyển sang các trường đại học bốn năm.
Tuy nhiên, ông nói rằng hầu hết các gia đình Việt
Nam không muốn trả học phí quá 20.000 USD mỗi năm. Lê Đình Hiếu lưu ý rằng một
nửa số khách hàng của ông có học bổng và những nguồn tài trợ khác có giá trị
trung bình 40% tổng chi phí cho việc học của họ.
Số lượng khách hàng (sinh viên) tìm các chương trình
du học tại Nhật Bản, Nam Hàn, Singapore, và những nơi khác đã tăng lên trong những
năm gần đây, theo ông Lê Đình Hiếu, khuynh hướng này sẽ tiếp tục cho đến khi Việt
Nam có một đại học nội địa nổi bật trong khu vực. Ông cho rằng đại học
Fullbright với sự hậu thuẫn của Mỹ và Việt Nam có thể giữ được vai trò này. Ông
Lê Xuân Tùng nói.
“Lý do căn bản rất đơn giản – 5% dân giàu nhất nước
vẫn chọn Mỹ, Anh, Úc, Canada, nhưng làn sóng du học sinh mới thực sự xuất phát
từ tầng lớp trung bình cao hoặc tầng lớp có thu nhập trung bình, và họ nhạy cảm
với vấn đề giá cả. Năm năm trước, sinh viên Việt Nam hiếm khi chọn Đức, Ý, Thuỵ
Điển, Tây Ban Nha, Hoà Lan, Na Uy, Cyprus, v.v.. Ngày nay, sinh viên Việt Nam
đi học ở khắp nơi.”
Bài viết này đăng lần đầu ở Tạp chí PIE, ra 4 số mỗi
năm.
© 2017 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net
Nguồn: What do Vietnamese think about their choices when it comes to study
abroad?. Matthew D Edward. The PIE Review, Nov 24, 2017.
Matthew
D Edward | Tác giả là một nhà báo và nhà giáo người Mỹ
tại thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Ông là một giảng viên thỉnh giảng về báo
chí và cũng dạy tiếng Anh tại trung tâm ngoại ngữ tư.
No comments:
Post a Comment