Friday, August 21, 2009

SỰ BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG HOA TRÊN ĐẤT LIỀN : TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM

Sự bành trướng của Trung Hoa trên đất liền : Trường hợp Việt Nam
C.P. FITZGERALD
Ngô Bắc dịch và phụ chú
17/8/2009
http://baotoquoc.com/2009/08/21/s%e1%bb%b1-banh-tr%c6%b0%e1%bb%9bng-c%e1%bb%a7a-trung-hoa-tren-d%e1%ba%a5t-li%e1%bb%81n-tr%c6%b0%e1%bb%9dng-h%e1%bb%a3p-vi%e1%bb%87t-nam/
Việt Nam là xứ sở mở rộng cửa nhất cho sự bành trướng và chiếm đóng trên đất liền bởi người Trung Hoa. Biên cương, mặc dù chạy dọc theo một rặng núi, lại cung cấp nhiều hơn một cửa ải khả dĩ tiếp cận đuợc, và bờ biển chỉ là một sự nối dài của bờ biển thuộc tỉnh Quảng Đông, miền nam nước Trung Hoa. Châu thổ sông Hồng, trung tâm của Bắc Việt, cũng là đồng bằng phì nhiêu to lớn nhất và tốt nhất ở phía nam cửa sông Dương Tử. Mọi tình huống xem ra đã phán định rằng xứ sở lân cận này sẽ trở nên, và tồn tại, như một phần của thế giới Trung Hoa, và một phần liên hợp của quốc gia Trung Hoa. Trong nhiều thế kỷ điều này được xem như sẽ là số phận của nó, và đã là một chuyện có thực. Việt Nam đã là một tỉnh của Trung Hoa từ năm 111 trước Công Nguyên cho đến năm 939, trong hơn một nghìn năm. Trong nghìn năm kế tiếp, từ năm 939 cho đến ngày nay, người Việt Nam, đã dành đạt được nền độc lập của họ, đã có thể duy trì sự tự chủ này với các sự gián đoạn ngắn ngủi – một cuộc tái chinh phục của Trung Hoa từ 1407 đến 1427, và sự cai trị của Pháp từ cuối thế kỷ thứ mười chin cho đến năm 1946. Các nguyên do tại sao một diễn tiến lịch sử hiển nhiên đã bị đảo ngược đáng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, bởi chúng soi sáng vào bản chất thực sự của sự tiếp xúc và bành trướng của Trung Hoa vào vùng đất biên cương phía nam.

Trước tiên cần phải nhận định rằng phần của Việt Nam trước đây lệ thuộc sự cai trị của Trung hoa chỉ vào khoảng một phần ba xứ sở hiện nay, đồng bằng châu thổ sông Hồng và bình nguyên duyên hải chạy dọc theo bờ biển của vịnh Bắc Việt [hay vịnh Đông Kinh: Gulf of Tongking trong nguyên bản, chú của người dịch]. Phần giờ đây là Trung Việt, và trước ngày độc lập được gọi bởi chính quyền thực dân Pháp như xứ bảo hộ An Nam, chưa có một thời kỳ lâu dài nào nằm dưới sự cai trị của Trung Hoa, và khi đó là phần đất phía bắc của vương quốc Chàm. Miền Nam Việt Nam đã là một phần của lãnh thổ Chàm, và xa hơn về phía nam, là đất của Căm Bốt. Các tên gọi ngày nay phần lớn phát sinh từ thuật ngữ được dùng dưới chế độ Pháp và không tương ứng hoặc là với các danh xưng trong tiếng Việt hay gần sát với các khu vực lịch sử. “Đông-Kinh: Tongking” là cách gọi của người Pháp, rút ra từ danh xưng một cố đô, ngày nay là thành phố Hà Nôi, được biết trong cách nói thông dụng là Tong King: Đông Kinh (Hoa ngữ viết là Tung Ching), có nghĩa Kinh Đô Phía Đông. An Nam, từ Hoa ngữ là An Nan, là một danh xưng được đặt cho miền bắc dưới sự cai trị của Trung Hoa thời nhà Đường, và có nghĩa “Phía Nam đã được bình định: Pacified South.” Cochinchina, được dùng để chỉ phía nam của phần ngày nay là Nam Việt Nam, là một từ ngữ do ngoại quốc đặt ra, có lẽ là có nguồn gốc từ ngôn ngữ Bồ Đào Nha. Nó không phải là tiếng Việt. Chính danh xưng “Việt Nam” là cách phát âm theo tiếng Việt các từ ngữ Trung Hoa Yueh Nan có nghĩa “Việt phương nam: Yeuh South,” đất Việt phía nam, đê” phân biệt nó với các vương quốc và khu vực Việt khác nằm dọc theo bở biển phía đông nam của Trung Hoa. Những phần đất này đã được bao gồm trong thời cổ vào nước Việt (Yueh Quốc) nay thuộc tỉnh Triết Giang, nằm sát phía nam của châu thổ song Dương Tử; Mân Việt (Min Yueh), nay là tỉnh Phúc Kiến, và Nam Việt (Nan Yueh hay Việt phương Nam), bao gồm tỉnh Quảng Đông và một phần tỉnh Quảng Tây với vùng châu thổ sông Hồng thuộc Bắc Việt ngày nay. Khu vực sau cùng này, là phần cực nam của Nam Việt, được goi là Việt Nam (Yueh Nan), “Việt phương Nam.”

Dân Việt chính vì thế từ thủa xa xưa đã dàn trải sâu rộng, dọc theo bờ biển phía đông của Á Châu, và có thể một trong những nhánh của họ đã là một thành phần cấu thành dân Nhật Bản sau này. Sự chinh phục của Trung Hoa, từ thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên trở về sau này, đã dần dà thu hút dân Việt phương bắc, cho tới năm 111 trước Công Nguyên, Hán Vũ Đế đã chính phục vương quốc Nam Việt (Nan Yueh) to lớn ở phía nam, và từ đó, chiếm giữ vùng châu thổ sông Hồng. Trước đó, Tần Thủy Hoàng Đế , kẻ thống nhất nước Trung Hoa, đã tấn công Nam Việt và cưỡng bách Nam Việt nhìn nhận quyền chủ tể của ông ta. Nhưng vào lúc có sự sụp đổ của đế quốc nhà Tần ngắn ngủi trong năm 203, Nam Việt đã khôi phục nền độc lập của mình cho đến khi sau rốt bị chinh phục bởi Hán Vũ Đế một thế kỷ sau đó. Ngay từ trong thời tiếp xúc đầu tiên này, một sự kiện đã xuất hiện: khi Trung Hoa ở dưới một chế độ cai trị thống nhất và hùng mạnh, sự độc lập của bất kỳ phần đất nào trong lãnh thổ nước Việt cũ sẽ bị nguy hiểm, hay mất đi. Khi Trung Hoa bị chia trí bởi các khó khăn nội bộ, người Việt đã khôi phục sự độc lập, và duy trì nó cho đến khi lại bị chinh phục một lần nữa bởi vũ lực. Không giống như các tỉnh nội vi của Trung Hoa, vùng đất Việt đã chiến đấu chống lại sự sáp nhập vào các đế quốc mới và không sẵn lòng khuất phục trước quyền lực trung ương mới, như các tỉnh của Trung Hoa vẫn thường làm.

Là một dân tộc đi biển, người Việt cổ xưa luôn luôn tạo dựng các khu định cư của họ trên các mảnh đất phì nhiêu nơi các châu thổ và cửa sông mang lại các khu vực khả dĩ canh tác duy nhất tại các tỉnh đồi núi phía đông nam sát biển của Trung Hoa. Chính vì thế, vương quốc Việt đầu tiên đã tập trung tại cửa sông Tiền Đường, quanh vịnh Hàng Châu trong tỉnh Triết Giang ngày nay; Mân Việt, tại Phúc Kiến, đặt nền móng trên vùng đất phì nhiêu ở cửa sông Mân, tại Phúc Châu; Nam Việt chiếm cứ châu thổ sông Tây Giang, tại Quảng Đông, và sau đó tràn xuống phía nam để sáp nhập và định cư tại châu thổ sông Hồng, miền Bắc Việt Nam ngày nay. Bốn vùng cửa sông và châu thổ này là phần đất canh tác tốt nhất và là các khu vực rộng lớn nhất thích hợp với việc trồng lúa tại bờ biển đông nam. Đồng bằng thứ năm, châu thổ sông Cửu Long, sau hết sẽ là khu định cư to lớn cuối cùng của dân Việt, và tạo thành vùng đất trọng tâm ngày nay của Nam Việt Nam. Các vùng đất phì nhiêu có nghĩa có sự định cư mau lẹ và tương đối đông đúc: trong khi nam tiến tại nội địa Trung Hoa, các di dân Trung Hoa phương bắc chỉ tìm thấy một dân số nhỏ dọc theo các thung lũng khá chật hẹp của các phụ lưu sông Dương Tử, một dân số dễ dàng bị nuốt chửng hơn bởi các di dân, dọc theo bờ biển, họ gặp phải các khu định cư của dân Việt đông đảo và chiếm giữ các phần đất cô đọng có khả năng cho một sự kháng cự có tổ chức. Nước Việt cổ thời tại Triết Giang hầu như tự mình hủy diệt, và làm dân tộc của mình yếu đi bởi các cuộc xâm lăng không ngừng vào các nước láng giềng, cho đến khi dân số của nó thực sự bị tiêu hao đi. Hán Vũ Đế đã áp dụng thủ đoạn di chuyển cưỡng bách trên quy mô rất lớn sô dân bị chinh phục khi ông ta chiếm cứ Mân Việt tại Phúc Kiến, cho họ tái định cư tại miền trung Trung Hoa. Nam Việt, tại Quảng Đông, quê hương của “các người nói tiếng Quảng Đông” duy trì cho đến ngày nay tính chất khác biệt và thái độ không nguôi ngoai đối với sự cai trị của phương bắc, lúc nào cũng tạo thành một vùng gây nhiều khó khăn cho chính quyền trung ương tại Trung Hoa, bất kể đến hình thức hay tính chất nào đi nữa.

Tiếng Quảng Đông, và cũng như thổ ngữ của Phúc Châu (Hokkiu) hay các thổ ngữ khác dọc duyên hải đông nam thì khác biệt một cách rõ rệt với lối nói Trung Hoa tiêu chuẩn ở bất kỳ biến thể nào tìm thấy trong Hoa ngữ. Một phần, sự khác biệt này tượng trưng cho các hình thức cổ xưa hơn của Hoa ngữ tiêu chuẩn, được áp đặt trên một sắc dân không nói tiếng Trung Hoa trong quá khứ, và như thường xảy ra, giữ lại trong các tình huống này một đặc tính nguyên thủy mà mạch chính của ngôn ngữ đã để lại phía sau. Điều có thể nhận thấy là tiếng Quảng Đông ngày nay gần gụi với ngôn ngữ nói Trung Hoa tiêu chuẩn của thời nhà Đường (thế kỷ 7 đến 10, sau Công Nguyên) là thời kỳ trong đó có xảy ra cuộc nhập cư lớn lao của người Trung Hoa phương bắc đến Quảng Đông. Thổ ngữ Phúc Châu được nghĩ là gần với tiếng nói tiêu chuẩn của thời nhà Hán, khi theo sau chính sách di cư của Hán Vũ Đế, nhiều người Trung Hoa phương bắc đã di chuyển vào khu vực sông Mân. Người ta có thể so sánh với âm sắc Anh ngữ thế kỷ thứ mười tám như được phát ngôn bởi dân da đen tại vùng West Indies, các sự khác biệt chỉ là thời khoảng trải qua dài hơn nhiều đối với các khu định cư của người Trung Hoa tại miền đông nam. Nằm dưới đặc thù ngữ học này là yếu tố chủng tộc; thành phần chính của dân chúng tại Quảng Đông, và cũng như ở Phúc Kiến, là một chủng tộc nguyên thủy không phải là người Trung Hoa, mà phần lớn là người Việt. Ngay trong các biên cương của đế quốc như được ấn định trên các ranh giới tồn tại lâu dài bởi Hán Vũ Đế hồi cuối thế kỷ thứ nhì trược Công Nguyên, sự xâm nhập của Trung Hoa phần rất lớn chỉ là sự áp đặt một nền văn hóa và một văn minh đã phát tirển hơn trên người dân không phải là Trung Hoa.

Chính sự kiện này đã giúp giải thích đặc điểm và cá tính cách biệt liên tục của người Việt Nam. Việt Nam, và từ ngữ này khi đó chỉ có nghĩa chỉ vùng châu thổ sông Hồng, là giới hạn cùng cực của đế quốc Trung Hoa, “Việt ở phương Nam: Yueh South”, nơi mà sự cai trị của Trung Hoa không có nghĩa là sự nhập cư của người Trung Hoa từ phương bắc, mà mang ý nghĩa một chính quyền của ngoại nhân gồm các quan chức Trung Hoa từ phương bắc. Đã sẵn có hàng nghìn nông dân canh tác trên đất đai, và cung cấp khỏan thuế thâu cho chính quyền Trung Hoa. Không có nhu cầu phải mang các số lượng lớn các nông dân di cư Trung Hoa, và đã có đầy đất đai gần nơi ở của các nông dân như thế hơn, đang chờ đợi để được định cư tại thung lũng sông Dương Tử và các phụ lưu của nó. Người Trung Hoa tìm thấy nơi dân Việt một dân tộc gồm các nông dân trồng lúa gao, giống như các nông dân của chính Trung Hoa; tương đối cũng dễ dàng áp đặt sự cai trị của Trung Hoa trên họ, và sau đó thiết lập các định chế tương tự trong hầu hết các khía cạnh như các định chế của Trung Hoa. Điều này đã xảy ra; văn hóa Việt Nam mang đậm màu sắc Trung Hoa, nhưng đặc tính chủng tộc của người dân vẫn tiếp tục là “Yueh“, tức là “Việt“, và họ đã kế thừa và ấp ủ ý thức về sự khác biệt chủng tộc đó cùng khát khao một quốc gia riêng biệt trong đó một hình thức biến cải đã luôn luôn biểu thị đặc tính cho các người anh em bị đồng hóa hơn của họ, các người nói tiếng Quảng Đông.

Ngay tầng lớp cai tri Trung Hoa vẫn còn ít về số lương; điều được nhận thấy rằng sẽ có lợi hơn cho quyền lực đế quốc khi cho phép các thủ lĩnh bản xứ của các thị tộc và các quận huyện [Việt] trở thành các địa chủ theo cung cách nhà Hán và thiết lập tại tỉnh xa xôi mối quan hệ điền chủ – tá điền và hệ thống chiếm hữu đất đai thay thế cho chế đố phong kiến thực thụ trước đây của Trung Hoa thời tiền đế quốc. Được giáo dục, và được khuyến khích để chấp nhận các phong tục và các cách suy nghi của Trung Hoa, tầng lớp này có thể được tưởng thưởng bằng việc làm trong ngạch chức dịch của triều đình, và đổi lại sự cai trị của Trung Hoa đạt được sự sở hữu của mình trên phần đã từng là các vùng đất công của các thị tộc. Một đặc điểm của lịch sử ban đầu của Việt Nam là các cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của Trung Hoa đã được lãnh đạo không phải bởi tầng lớp quý tộc tiểu địa chủ [sic], mà là bởi các nông dân. Một đặc điểm khác không có mang tính chất Trung Hoa, nhưng phù hợp với phong tục Việt Nam, rằng một số trong các nhà lãnh đạo này phải là phụ nữ. Các sự kiện này làm liên tưởng đến một sự cách biệt kéo dài giữa tầng lớp quý tộc tiểu địa chủ bị Hán hóa với giới nông dân là các kẻ, bị thất học, nên ít thụ nhận ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa hơn. Nếu sự áp đặt sự cai trị và văn hóa Trung Hoa trên người dân Quảng Đông, sau hơn hai nghìn năm, vẫn còn để lại trên sắc dân này nhiều tính chất đặc biệt và một sự khó chịu dai dẳng đối với sự thống trị của phương bắc, không mấy khó khăn để nhận thấy rằng cá tính dân tộc của người Việt Nam lại còn nổi bật một cách mạnh mẽ hơn nữa. “Quảng Đông là của người Quảng Đông” đã là một khẩu hiệu phổ biến trong thời kỳ đầu của nền Cộng Hòa [Trung Hoa]; các người phương bắc đôi khi đã kinh ngạc tự hỏi là liệu nó đã không thực sự có nghĩa rằng “Trung Hoa là của người Quảng Đông hay sao”. Tại Việt Nam một nghìn năm thống trị của người Trung Hoa cũng không thể xóa bỏ cảm thức “Việt Nam là của người Việt Nam” như thế — mặc dù ở vị thế xa xôi của một tỉnh cũ, trong khi điều này giúp cho khát vọng này trở nên khả thi hơn, không cách nào có thể khơi dậy bất kỳ kỳ vọng nào về sự chế ngự của Việt Nam đối với chính quyền trung ương của chính đế quốc.

Thế kỷ đầu tiên của sự cai trị của Trung Hoa không ghi nhận bất kỳ cuộc nổi dậy quan trọng nào bởi dân chúng Việt Nam; Trung Hoa vẫn ở dưới một chế độ cai tri mạnh của nhà Tiền Hán, và mãi cho đến các năm đầu tiên của thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, các khó khăn nội bộ mới làm rung chuyển quyền lực đó. Giữa năm thứ 9 và 23, ngôi vua bị tiếm đoạt bởi Vương Mãng (Wang Mang), và sau khi ông ta sụp đổ, Trung Hoa trong nhiều năm đã bị xáo trộn bởi cuộc nổi loạn của phong trào nông dân Hồng Mi (Red Eyebrows) và các cuộc nội chiến giữa các kẻ khát khao ngai vàng. Nhà Hậu Hán, được thành lập bởi vị hoàng tử bàng hệ có vương hiêu trị vì là Hoàng Đế Quang Vũ (Kuang Wu), đã không củng cố được quyền lực trong một thập niên, và chính ở thời điểm này mà người Việt Nam đã vươn lên trong cuộc nổi dậy quan trọng đầu tiên của ho/. Trong năm 39, hai chị em, bà Trưng Trắc và Trưng Nhị, là thành viên của một gia đình lạc tướng, đã nổi dậy trong một cuộc khởi nghĩa và duy trì sự kháng cự của họ trong mười năm. Sự đàn áp cuộc nổi dậy này trùng hợp rất khắng khít với sự củng cố quyền lực của triều đại Hậu Hán vừa mới được phục hưng và được thi hành bởi một trong các viên tướng hàng đầu của tân Hoàng Đế Quang Vũ. Chị em bà Trưng, cho dù bị thất bại, vẫn là các nữ anh hùng đối với người dân Việt Nam. Họ có dựng đền thờ Hai Bà ở Hà Nội, và hãy còn được tôn kính như các nhà ái quốc. Chu Ân Lai, Thủ Tướng Cộng Sản Trung Hoa, đà làm một cử chỉ khéo léo khi quỳ gôi trước bàn thờ Hai Bà lúc ông ta mở một cuộc thăm viếng cấp quốc gia ở Bắc Việt. Ký ức được lưu giữ lâu đời tại Á Châu.

Sự trùng hợp giữa các thời kỳ suy yếu của Trung Hoa và các cuộc nổi dậy của Việt Nam chống lại sự thống trị của Trung Hoa có thể được quan sát liên tục tiếp diễn cho đến lúc có sự chấm dứt sự cai trị trực tiếp của Trung Hoa. Trong năm 192, một cuộc nổi dậy với tầm mức rộng lớn khác đã làm rung động thẩm quyền của Trung Hoa, và chỉ ba năm trước đó, trong năm 189, đế quốc nhà Hán, với sự băng hà của Hoàng Đế Ling [?], đã bước vào thời kỳ xáo trộn chung cuộc của nó với nội chiến và tình trạng rối loạn căng thẳng còn gia tăng bởi một cuộc nổi dậy lớn lao khác của nông dân, phong trào Khăn Vàng (Yellow Turbans). Cuộc nổi dậy năm 192 có vẻ không mang tính chất chủ yếu là Việt Nam, mà đúng hơn là một đợt bộc phát đầu tiên của người Chàm, các kẻ đã thiết lập vương quốc mới của họ tại vùng đã là khụ vực vươn xa xuống cực nam của tỉnh hạt thuộc Trung Hoa, bộ chỉ huy ở Nhật Nam (Jihnan) (Phía Nam của Mặt Trời), tương ứng với đồng bằng duyên hải nằm giữa Đà Năng và “Cửa Ải An Nam: Annam Gate” (Porte d’Annam) ngày nay, gần đường giới tuyến hiện tại giữa Bắc và Nam Việt Nam. Khu vực này đã bị mất về tay Trung Hoa. Đến năm 222, Trung Hoa bị chia cắt thành Tam Quốc, và chính nước Ngô (Wu), quốc gia phía đông nam, đã thừa kế thẩm quyền Trung Hoa tại châu thổ sông Hồng. Mặc dù Trung Hoa vẫn xác lập chủ quyền trên Nhật Nam, không có bằng có cho thấy bất kỳ thẩm quyền thực sự nào đã được tái lập sâu vê phía nam đến thế. Xứ Chàm trong thực tế có gửi các sứ đoàn đến triều đình nhà Ngô trong năm 230, nhưng trong năm 248 một lần nữa đã tấn công tỉnh của Trung Hoa ở phía bắc và sau khi dành đạt một chiến thắng đáng kể, đã giữ lại khu vực ở sông Gianh [ghi là sông Giang (sic) trong nguyên bản, ND], phía nam châu thổ sông Hồng. Sự suy yếu và phân hóa của Trung Hoa đã là các nguyên do chính của các cuộc xâm lăng này của người Chàm. Trong năm 277, Tam Quốc được thống nhất ngắn ngủi bởi một triều đại mới, nhà Tấn (Tsin), thế nhưng chế độ này đã làm mất miền bắc Trung Hoa trước các cuộc xâm nhập của người Thát Đát (Tatar)vào năm 316, và từ đó chỉ cai trị miền nam không thôi.

Trong hai trăm năm kế đó, dưới thời nhà Nam Tấn và các triều kế thừa ở miền nam Trung Hoa, người Việt Nam đã không nổi dậy. Có thể rằng mối đe dọa mới đặt ra bởi quyền lực của nước Chàm là một lý do tại sao người Việt Nam lựa chọn sự cai trị của Trung Hoa hơn là các sự mạo hiểm của cuộc nổi dậy, sẽ mang đến cho người Chàm một cơ hội để xâm lăng hơn nữa. Mãi đến năm 543, cuộc nổi dậy của gia tộc họ Lý, với nhà lãnh đạo Lý Bôn, đã thành lập triều đại Việt Nam độc lập đầu tiên, nhà Tiền Lý, đã tạm thời mang sự cai trị của Trung Hoa tại Việt Nam đến chỗ kết thúc. Vào lúc đó, nhà Lương (Liang) bên Trung Hoa đã tiến tới hồi chung cuộc của mình, và sự rối loạn và suy yếu đã sớm lật đổ chế độ và thay thế bằng nhà Ch’en (557-89), một triều đại ngắn ngủi và yếu ớt, không có khả năng kiểm soát phần lớn miền nam Trung Hoa, và chính vì thế, không thể tái thiết lập quyền lực của Trung Hoa tại Việt Nam. Khi vào năm 589, nhà Tùy (Sui) tái thống nhất đế quốc và chấm dứt sự phân chia kéo dài giữa các triều đại người Thát Đát ở phương bắc và các triều đại Trung Hoa ở phương nam, không lâu sau đó họ đã xâm lăng Việt Nam và tái áp đặt sự thống trị của Trung Hoa. Sớm bị thay thế (618) bởi triều đại nhà Đường (Tang) vĩ đại, cuộc tái chinh phục của nhà Tùy này đã được duy trì. Các cuộc nổi dậy, trong đó có một cuộc khởi nghĩa quan trọng vào năm 722, đã bị trấn áp, và nhu cầu đối với nhà Đường nhằm duy trì một quân đội lớn lao trong nước để phòng thủ biên cương sát vương quốc Vân Nam đang vươn lên tại Nam Chiếu, đã khiến cho nền độc lập của Việt Nam không đạt tới được. Nhà Đường, sau cuộc chinh phục, đã đổi tên nước là An Nan (có nghĩa An Nam), “Miền Nam đã được bình định: Pacified South”.

Trong hai trăm năm mươi năm sự cai trị của nhà Đường tại An nam không bị thách đố, và thời kỳ dài này trong đó xứ sở nằm dưới chính quyền Trung Hoa, một chính quyền được tổ chức chặt chẽ đến mức chưa hề có trước đây, và triều đại trị vì này lại được hỗ trợ bởi điều có lẽ là thời đại tuyệt diệu nhất của văn hóa Trung Hoa, đã tạo ra một ấn tượng sâu đậm trên người dân Việt Nam. Nó đã không, như các biến cố diễn ra cho thấy, khuyến dụ họ bỏ qua khát vọng của mình là độc lập với Trung Hoa trong các vấn đề chính trị, nhưng nó đã tạo ra văn hóa Việt Nam trong khuôn mẫu Trung Hoa và vẫn còn ở trong khuôn mẫu đó kể từ lúc ấy. Giới thẩm quyền Trung Hoa trước đó đã khởi sự công việc này, thời đại nhà Đường đã hoàn tất nó. Khi Việt Nam trở thành độc lập, Việt Nam cho thấy không có y muốn phủ nhận di sản văn hóa mà nước này đã thụ đắc từ nhà Đường.

Trong năm 868 quân đội Trung Hoa tại Việt Nam, trú đóng nơi biên giới với vương quốc Nam Chiếu (giờ đây là biên giới bị đổi ngược giữa Trung Hoa và Bắc Việt Nam) nổi loạn. Đội quân này đã không được trả lương từ lâu, và triều đình xa xôi bị đắm chìm vào tình trạng vô khả năng và lệ thuộc vào các viên chỉ huy quân sự cấp tỉnh. Các kẻ nổi loạn đã quay về quê tại Trung Hoa và khởi động một chuỗi nội chiến và nổi dậy đi đến việc kết liễu triều đại nhà Đường trong vòng chưa đến bốn mươi năm. Trung Hoa khi đó bị tan vỡ thành một số các quốc gia tranh liệt và riêng biệt, tất cả đều tuyên bố nắm trọn đế quốc, nhưng phần lớn chỉ kiểm soát một hay hai tỉnh, hay ngay khi chỉ có một tỉnh. Chính trong tình trạng hỗn mang của sự xáo trộn này mà dân Việt Nam, noi theo khuôn mầu chung, đã nổi dậy và thành lập vương quốc riêng biệt của chính họ, vào năm 934.

Nhà Đinh, giờ đây đã nắm giữ quyền bính tại Việt Nam, đã là triều đại đầu tiên trong một chuỗi các triều đại duy trì nền độc lập của xứ sở cho đến khi có sự chinh phục của người Pháp trong thế kỷ thứ mười chín, với một khoảng đứt đọan ngắn hồi đầu thế kỷ thứ mười lăm. Từ sự chấm dứt sự cai trị của Trung Hoa trong thế kỷ thứ mười, Việt Nam trong thực tế đã tự mình điều hành đất nước, cho dù một sự thừa nhận cẩn trọng quyền chủ tể của Trung Hoa có được đưa ra bởi tất cả các triều đại Việt Nam. Trong thực tế, điều này có ý nghĩa rất ít; các tặng phẩm quý giá được trao như các cống phẩm, và các sứ giả đã nhận lại được các tặng phẩm còn xa hoa hơn để phô bày quyền lực và sự hào phóng của Hoàng Đế Trung Hoa. Các nhà vua Việt Nam đã tìm kiếm và nhận được sự phê chuẩn sự lên ngôi của họ từ vị chủ tể của họ. Người Việt Nam chấp nhận dùng lịch theo triều đại Trung Hoa trị vì, một hành vi có vài ý nghĩa tôn giáo, và trong một vài cung cách có thể so sánh với việc treo cờ Anh Quốc (Union Jack) trong một số dịp bởi các thành viên tự cai trị và độc lập thực sự trong Khối Thịnh Vượng Chung Anh Quốc. Trung Hoa đã không đảm nhận trách vụ bảo vệ Việt Nam, dù là để chống lại các kẻ thù ngoại lai, hay để giúp cho triều đại trị vì đập tan sự nổi dậy trong nội bộ. Việt Nam cũng không có nghĩa vụ phải trợ giúp quân sự cho các cuộc chiến tranh của Trung Hoa. Điều được thông hiểu là quốc gia triều cống không được xúc tiến các ý đồ hay cung cấp sự trợ giúp cho một kẻ thù của vị Hoàng Đế, và điều này cũng áp dụng cho các cá nhân riêng tư cũng như cho các nước ngoài.

Thỏa ước (Modus Vivendi) này đã không được đạt tới một cách tức thì: khi các sự xáo trộn tiếp diễn theo sau sự sụp đổ của triều đình nhà Đường bị kết thúc bởi sự đăng quang của triều đại mới, nhà Tống, năm 960, một ít năm đã trôi qua trước khi tân đế quốc được hoàn toàn củng cố bởi chính sách khéo léo của kẻ sáng lập triều đại. Các quốc gia phương nam nơi mà đế quốc bị giải tán đã lần lượt được khuyến dụ quay về “trung thành thực sự” hay sẽ bị trấn áp, thường với sự kháng cự rất yếu, nếu chúng còn ngoan cố. Cho đến mức công tác này đã được hoàn tất, không có gì thắc mắc về sự can thiệp của nhà Tống tại Việt Nam. Vào năm 981 nhà Tống đã trở nên hoàn toàn được chấp nhận và thiết định. Một cuộc viễn chinh khi đó được phóng ra để giải trừ “vương quốc chống đối” phương nam duy nhất còn lại, Việt Nam. Có thể là hoàng đế nhà Tống và các cận thần cố vấn của ông đã không nhìn thấy sự khác biệt cụ thể nào giữa tỉnh huyện cũ ở An Nam với các vương quốc khác – hay “đế quốc” khác như họ vẫn tự xưng – khởi lên tại các tỉnh phía nam. Tất cả đều là một phần của đế quốc nhà Đường và chính vì thế tất cả phải quay về thần phục nhà Tống. Nhưng Việt Nam thì khác; chỉ mình Việt Nam mới có cá tính dân tộc thực sự của mình mạnh hơn các sự ràng buộc của nó với Trung Hoa, đặc biệt trong khía cạnh chính trị của mối quan hệ đó. Việt Nam đã kháng cự, và với sự thành công. Cuộc xâm lăng của nhà Tống bị đẩy lui. Nó không bao giờ mưu toan xâm lăng nữa. Việt Nam thừa nhận quyền chủ tể của Trung Hoa, và các hoàng đế nhà Tống đã chấp nhận phương thuật giữ thể diện này. Đây vẫn còn là chính sách của Trung Hoa từ thời điểm đó trở về sau, chỉ bị đảo ngược một lần duy nhất. Nhà Tống trong thực tế đã gặp các vấn đề khác gây khó khăn cho họ. Biên cương phía bắc, bất an kể từ khi có sự mất mát các phần đất kiểm soát các cửa ải xuyên qua Trường Thành, mà họ đã thất bại không tái chinh phục được, là khó khăn thường xuyên của họ. Việt Nam là vấn đề nặng về uy tín hơn là an ninh quốc gia, nó có thể để yên thân một mình.

Các sự thay đổi triều đại ở Việt Nam, diễn ra bởi các cuộc nổi dậy hay đảo chính cung đình, đã không cám dỗ nhà Tống nắm giữ lấy bất kỳ cơ hội nào như thế. Năm 1010, chỉ hai mươi năm sau sự đẩy lui cuộc xâm lăng của nhà Tống, một triều đại mới, nhà Lý, đã lên nắm quyền bính ở Việt Nam. Nó tức thời tái tục mối quan hệ chủ tể – cống nạp hiên hữu với đế quốc nhà Tống, và được chấp nhận. Kế đó khi bị di chuyển trong năm 1225, đế quốc nhà Tống đã mất miền bắc Trung Hoa vào tay người Kim Thát Đát xâm lăng và đã được thiết lập tại miền nam, ở Hàng Châu, kiểm soát thung lũng sông Dương Tử và mọi lãnh thổ phía nam con sông đó. Trong những thời kỳ trước, sự di chuyển quyền lực trung ương của Trung Hoa xuống miền nam đồng nghĩa với một khuynh hướng mở rộng đất biên giới phía nam. Điều được nghĩ trong thực tế rằng đã có một phong trào đáng kể của dân chúng miền bắc xuống vùng Nam Hoa lúc bấy giờ, nhưng được hòa nhập trong vòng các biên cương hiện hữu của đế quốc nhà Tống. Miên nam Trung Hoa đã phát triển mau chóng trong thời kỳ này, nhưng áp lực không đủ mạnh để đẩy nhà Tống vào các cuộc chiến tranh chinh phục ra ngoàì lãnh địa của nó. Hơn nữa, Trung Hoa đã phải phòng vệ một biên cương miền bắc mở ngỏ dọc theo bờ ranh không xác định của dải đất viền phía bắc lưu vực sông Dương Tử, một vùng không có biên cương tự nhiên, đặc biệt tại phần phía đông.

Triều đại mới của Việt Nam, nhà Trần [ghi sai là Tranh trong nguyên bản, chú của người dịch], được để yên bởi nhà Nam Tống, nhưng không quá lâu, đã phải đối diện với nỗi nguy hiểm khổng lồ của các cuộc xâm lăng của Mông Cổ. Khi nhà Trần lên nắm quyền bính, nhà Tống đã sẵn bị tấn công bởi các chủ nhân mới của miền bắc Trung Hoa, và của một đế quốc trải ngang qua Á Châu cho đến trung tâm nước Nga. Sự chính phục nhà Nam Tống bởi người Mông Cổ là một tiến trình chậm rãi, lâu dài, bị kháng cự mãnh liệt trong bốn mươi năm. Phải đợi mãi đến năm 1278 ham đội nhà Tống cuối cùng mới bị triệt hạ ngoài khơi Hồng Kông và triều đại sau rốt bị hủy diệt. Năm năm sau đó, trong năm 1284, Kubilai Khan, Hoàng Đế người Mông Cổ của Trung Hoa là người mà người Trung Hoa nhìn nhận như nhà cai trị chính thống đầu tiên của đế quốc (mặc dù các tiền nhân của ông ta, trở lùi lại từ Genghiz, trong thực tế đã đô hộ miền bắc Trung Hoa trong bảy mươi năm), đã xâm lăng Việt Nam. Người Việt Nam, đối diện với uy thế của quyền lực quân sự lớn nhất trên thế giới vào lúc bấy giờ, đã dựa vào phương sách chiến tranh du kích; các thành phố bị bỏ hoang cho quân xâm lược, cuộc kháng chiến tập trung tại vùng rừng núi. Các đội quân Mông Cổ chủ yếu là kỵ binh, và khí hậu cũng như địa thế của Việt Nam thì bất lợi cho các lực lượng của họ. Các cuộc xâm lăng đã tái diễn trong ba hay bốn năm, nhưng các sự tổn thất vì bệnh tật và tính chất bất quyết của cuộc chiến tranh cuối cùng khiến Kubilai quyết định rằng Việt Nam không đáng để khổ công và gánh chịu sự tổn thất; ông ta đã chấp nhận cống phẩm của các nhà lãnh đạo triều Trần và triệt thoái các đội quân bị hao hụt của mình. Ở thời điểm này, điều cần phải được nhấn mạnh, “Việt Nam”, hay An Nam như được gọi bởi người Trung Hoa, hãy còn chỉ bao gồm châu thổ sông Hồng và dải duyên hải xuôi nam cho đến vùng thuộc vĩ tuyến thứ 17. Cuộc “Nam Tiến: March to the South” vĩ đại mới chỉ bắt đầu. Triều đại nhà Trần chỉ cai trị phần giờ đây là Bắc Việt Nam.

Triều đại đó kéo dài hơn chính triều đại nhà Nguyên Mông Cổ của Trung Hoa. Trong năm 1400, khi nó bị sụp đổ, nhà Minh, tượng trưng cho sự phản công của Trung Hoa, đã đánh đuổi quân Mông Cổ ra khỏi Trung Hoa và dưới Hoàng Đế Vĩnh Lạc dũng mãnh đã thúc đẩy sự xác quyết lòng trung thành với nó vào thế giới các vương quốc phương nam, bằng cả đường biển lẫn đường bộ. Một ít năm sau khi có sự sụp đổ của nhà Trần, năm 1407, Hoàng Đế Vĩnh Lạc, được nghĩ đã quyết định rằng ông không cần nhìn nhận các kẻ kế ngôi nhà Trần, đã xâm lăng và chinh phục xứ sở. Như sẽ được nhận thấy, vương quốc này đã sẵn mở rộng về phía nam đến tận Đà Nẵng, nhưng xem ra sự cai trị của Trung Hoa chưa hề được thiết lập một cách thực vững chắc tại các vùng đất mới phía nam này. Dù sao đi nữa, sự thống trị đã không kéo dài. Chính Vĩnh Lạc đã mất đi năm 1425, và đã có một sự kế vị mau lẹ của các vị hoàng đế vắn số tại Trung Hoa, làm suy yếu chính quyền. Trong năm 1427, một cuộc nổi dậy đã sẵn bị phá tan chin năm trước vào năm 1418 dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, đã đánh bại quân Trung Hoa gần thành phố biến giới, Lạng Sơn, thu đoạt được thắng lợi quyết định và tái chiếm kinh đô, Hà Nội. Các hoàng đế nhà Minh, giống như các kẻ tiền nhiệm nhà Tống, sau đó đã chấp nhận cống phẩm dâng tặng bởi Lê Lợi, người đã thành lập triều đại Việt Nam mới. Cuộc xâm lăng của Vĩnh Lạc đã là nỗ lực sau cùng bởi các nhà lãnh đạo Trung Hoa nhằm sáp nhập Việt Nam thành một tỉnh thuộc đế quốc Trung Hoa. Khi các người Mãn Châu thừa kế ngai vàng trong thế kỷ thứ mười bảy, họ đã thực hiện một vài sự biểu dương quân sự với Việt Nam, nhưng đã mau chóng chấp nhận mối quan hệ chính trị hiện hữu được thiết lập trước tiên dưới thời nhà Tống. Chính vì thế, trong hơn một nghìn năm, kể từ khi thâu đạt được nền độc lập năm 939 cho đến cuộc chinh phục của Pháp hồi cuối thế kỷ thứ mười tám, Việt Nam trong thực tế là một quốc gia độc lập, ngay dù nó vẫn là một nước nằm dưới ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ và liên tục của Trung Hoa.

Sự cai trị của Trung Hoa đã từng được áp dụng trên một khu vực nhỏ hơn nhiều của vương quốc phát sinh sau khi nền độc lập đã đạt được. Điều đó có lẽ là một lý do tại sao nhà Đường và trước đó, các đế quốc yếu hơn chẳng hạn như các đế quốc miền nam Trung Hoa giữa thời nhà Hán và nhà Đường, đã có thể duy trì thẩm quyền của chúng tại tỉnh hạt xa xôi này. Về phía người Việt Nam trong các thế kỷ này đã bị ngăn trở khỏi cuộc mở rộng về phía nam bởi có sự hiện diện của vương quốc Chàm hiếu chiến mở các cuộc tấn công cướp bóc bằng đường biển trên vùng duyên hải. Sự bảo hộ của đế quốc Trung Hoa là cần thiết và đã phải trả giá với sự cai trị trực tiếp của Trung Hoa. Gần như tức thời sau khi nền độc lập đã đạt được vào đầu thế kỷ thứ mười sau Công Nguyên, tình trạng này đã thay đổi. Một nguyên do chính là sự gia tăng dân số tại châu thổ sông Hồng phì nhiêu dưới sự cai trị lâu dài và yên ổn của nhà Đường. Áp lực đòi hỏi các vùng đất mới để định cư, và trong bản chất là một dân tộc trồng lúa gạo, người Việt Nam đã tìm thấy các mảnh đất này dọc theo dải duyên hải phì nhiêu, chứ không phải tại miền núi phía tây giáp ranh với Vân Nam. Vùng đồi núi khi đó, như bây giờ, phần lớn được cư trú bởi các bộ tộc không thuộc sắc dân Việt Nam [sic], thường thù nghịch với dân ở đồng bằng; điều đáng làm hơn nhiều là chiếm giữ khu đất tốt dọc duyên hải hơn là mở các cuộc chinh phục khó khăn dành giựt đất xấu hơn tại miền núi.

Trong năm 982 triều đại mới nhà Đinh, mới chỉ lên nắm quyền bính khoảng bốn mươi năm trước đó, đã đủ mạnh để xâm lăng xứ Chàm và lục soát kinh đô của nó, khi đó nằm ở phía bắc của xứ đó. Việt Nam có giữ lại một vài lãnh thổ đã chinh phục, nhưng cuộc nam tiến được tái tục bởi triều đại Việt Nam kế tiếp, nhà Lý (1010-1225), vào năm 1069, đã sáp nhập tất cả vùng đất của Chàm sâu đến vĩ tuyến thứ 17, có nghĩa, là phần thuộc Bắc Việt Nam bây giờ. Rõ ràng là các cư dân Chàm đã không chỉ bị chinh phục – hay hạ sát – các kẻ sống sót bị xua đuổi, đi tìm nơi ẩn náu tại các phần đất phía nam quê hương của họ. Cuộc chinh phục của Việt Nam không chỉ là một cuộc xâm lược để áp đặt quyền thống trị và thu thuế, nó được trù hoạch với chủ ý dành đạt lãnh địa mới cho sự định cư của người Việt Nam. Mục tiêu này được chứng tỏ là động lực thống nhất và khát vọng của chế độ mới độc lập. Các nông dân, chen chúc tại các khu đất thiếu hụt của châu thổ sông Hồng, muốn có các vùng đất mới để chạy trốn nạn nghèo đói gia tăng tại các làng xã quá đông đúc. Tầng lớp địa chủ — giới mà chế độ Cộng Sản ngày nay gọi là “phong kiến”, chỉ là giới trung nông có sở hữu đất đai trong thực tế phần lớn được tuyển dụng bởi chính quyền làm các viên chức giống như ở Trung Hoa – đã muốn có điền sản mới; cả hai tầng lớp vì thế hậu thuẫn cho các cuộc chiến tranh chinh phục và định cư. Đặc tính cuộc di dân nam tiến của Việt Nam chính vì thế rất giống với tính chất của cuộc nam tiến của Trung Hoa trong vùng ngày nay là các tỉnh phía nam Trung Hoa. Nhưng tại Việt Nam đã không có chỗ hay mong muốn sự có mặt của dân định cư Trung Hoa: người Việt Nam tự họ đã quá đông đảo. Họ mang văn hóa và phong tục Trung Hoa cùng với họ xuống miền nam, nhưng cuộc bành trướng vĩ đại đã không mang tính chất Trung Hoa về mặt nhân lực hay trong sự chỉ đạo. Sự thống trị của Trung Hoa tại Việt Nam đã kết liễu trước khi nó khởi sự.

Khi triều đại nhà Lý sụp đổ, triều đại mới nhà Trần, 1225-1400, đã đảm nhận nhiệm vụ và theo đuổi cùng chính sách. Vào khoảng năm 1306, họ đã vươn tới Đà Nẵng, giờ đây thuộc Nam Việt Nam. Sự trì hoãn tương đối trong việc đạt tới mục tiêu này có thể là một hậu quả của các cuộc xâm lăng ồ ạt của Mông Cổ vào năm 1284 và sự tàn phá mà chúng đã gây ra. Việt Nam đã không thể đáp ứng được các cuộc mạo hiểm phía nam trong khi mối đe dọa này còn tồn tại. Vào năm 1306, Kubilai Khan từ trần, và các người thừa kế ông ta, các vị vua trị vị ngắn ngủi và chết sớm, đã từ bỏ giấc mộng chinh phục toàn thế giới của mình. Trong triều đại nhà Nguyên (Mông Cô) sau này, Trung Hoa đã im lặng về đối sách với phương nam. Các vua nhà Trần của Việt Nam do đó đã có thể tái tục cuộc “Nam Tiến”, đến mãi tận Đà nẵng, nhưng có lẽ rằng bước tiến dài này đòi hỏi nhiều hơn những gì mà một triều đại đã sẵn vượt quá thời cực thịnh của mình có thể đáp ứng một cách an toàn. Trong năm 1371, người Chàm, trong một cuộc quật khởi hữu hiệu sau cùng, đã càn quét miền bắc và thực sự chiếm giữ và lục soát chính Hà Nôi. Tai họa này đã đẩy triều đại nhà Trần vào một tình trạng rối loạn từ đó nó không bao giờ hồi phục. Ba mươi năm sau đó nó đã bị thay thế vào năm 1400 và trong sự rối loạn tiếp theo sau, hoàng đế Vĩnh Lạc của Trung Hoa đã đạt được sự tái chính phục ngắn ngủi của ông ta tại Việt Nam (1407-27). Kế đó, tình trạng này đã được kết thúc với cuộc kháng chiến thành công của triều đại mới, nhà Lê, nhưng đã phải mất năm mươi năm trước khi cuộc Nam Tiến có thể tại tục trên một quy mô rộng lớn. Cuộc phản công của người Chàm trong năm 1371, được hỗ trợ bởi các tình huống trùng hợp với cuộc tấn kích, đã mang lại cho người Chàm một ân hạn trong một trăm năm.

Trong năm 1471, nhà vua Việrt Nam đã xâm lăng xứ Chàm với thế mạnh và đã chiến thắng toàn diện. Kinh đô bị chiếm cứ, một cuộc tàn sát quy mô các cư dân đã được thực hiện, và vương quốc Chàm đã thực sự bị hủy diệt. Số người Chàm còn sót lại ở mãi xa phía nam, vùng châu thổ sông Cửu Long, miền đất đã bị phân chia thành nhiều lãnh địa nhỏ, tất cả đều dưới quyền chủ tể củaViệt Nam. Người Việt đã đạt được phần lớn mục tiêu của họ, sự chinh phục miền nam, nhưng sự kiện này chứng tỏ sẽ tự nó trở thành một vấn nạn. Sự bành trướng vào các vùng đất mới, nơi ít dân hơn, có nghĩa là các di dân có khuynh hướng thụ đắc các đặc tính khác luôn luôn làm cho các di dân trở nên khác biệt. Họ trở nên ít phục tùng hơn đối với chính quyền trung ương xa xôi, độc lập hơn trong cách nghĩ và lối sống của họ. Họ đã khám phá rằng bởi việc di chuyển về phía nam người ta có thể để lại phần lớn một chính quyền đàn áp phía sau; nếu nó truy đuổi, người ta chỉ còn cách di chuyển đến vùng đất mới hơn, song lại phì nhiêu hơn. Không bao lâu chính quyền ở Hà Nội nhận thấy miền nam xa xôi khó kiểm soát được. Triều đại nhà Lê đã đi qua thời cực thịnh của nó hồi giữa thế kỷ thứ mười sáu. Hai gia tộc quan chức lớn đã chế ngự triều đình, và các âm mưu và sự thù nghịch lẫn nhau của họ đã đe dọa đến chế độ. Trong hai gia tộc, họ Trịnh có quyền lực lớn hơn tại Hà Nội, và trong năm 1558 họ đã âm mưu để tự loại bỏ đối thủ của mình, họ Nguyễn, bằng cách đẩy trưởng tộc họ Nguyễn được cử đi làm tổng trấn miền nam, với tổng hành dinh tại Huế. Việc này vừa dành cho họ Trịnh một thẩm quyền không bị đụng chạm tới trên các vua Lê yếu ớt, vừa để các khó khăn của miền nam cho đối thủ của họ giải quyết sao cho tốt nhất với khả năng của họ Nguyễn.

Nhà Nguyễn đã chứng tỏ rất có khả năng để đối phó với các vấn đề này. Giờ đây đã có điều tuơng đương, và được phát triển vững chắc, như một chính quyền trung ương mới tọa lạc tại chính miền nam, ở Huế. Chính nhà Nguyễn quan tâm đến việc mở rộng thêm nữa, để gia tăng lãnh địa của họ và tự mình củng cố để chống lại nhà Trịnh ở phương bắc. Sự bành trướng sẽ mang các kẻ định cư mới từ phương bắc vào, và miền nam vẫn còn thưa dân hơn nhiều. Chỉ trong vòng hơn một thế kỷ, vào khoảng 1692, các nhà lãnh đạo nhà Nguyễn tại Huế đã hoàn toàn trấn áp các lãnh địa Chàm còn lại và thực sự làm quốc gia đó tan biến đi. Một số cộng đồng người Chàm hãy còn hiện diện dọc bờ biển sâu phía nam của Việt Nam, và tại các quận huyện lân cận ở Căm Bốt, nhưng nếu kể như một dân tộc, người Chàm đã biến mất trong lịch sử. Nhà Nguyễn đã chiếm cứ Sàigòn trong năm 1691. Biến cố này chỉ xảy ra vài năm sau khi triều đại mới của Trung Hoa, Mãn Châu, dưới thời Hoàng Đế Khang Hi trẻ tuổi, mạnh bạo, sau hết đã trấn áp tất cả các đối thủ gốc Trung Hoa của ông ở miền nam Trung Hoa và chinh phục toàn thể đế quốc (1688). Sự kiện rằng nhà Nguyễn nhận thấy có thể tiến hành cuộc chinh phục lớn lao sau cùng ở miền nam, tức vùng châu thổ sông Cửu Long, vào một thời điểm khi mà đối thủ của họ tại Hà Nội, nhà Trịnh, phải dò chừng tham vọng và sự thù nghịch khả hữu của vị Hoàng Đế Trung Hoa hiếu chiến và say men chiến thắng chắc chắn có ý nghĩa quan trọng. Sự lúng túng của nhà Trịnh đã là cơ hội cho nhà Nguyễn.

Nhà Nguyễn đã không mấy lo sợ về Khang Hi; họ thu nhận vào các vùng đất mới chinh phục không chi dân di cư gốc Việt mà còn cả các người tỵ nạn Trung Hoa trốn tránh sự chinh phục của Mãn Châu thuộc miền Nam Trung Hoa; một số trong các người này đã thành lập ra Chợ Lớn, thành phố chị em của Sàigòn vẫn còn được cư trú bởi người Trung Hoa. Các người khác định cư tại châu thổ sông Cửu Long. Trong các thời đại sớm hơn, không chế độ Việt Nam nào dám chứa chấp các kẻ địch của Hoàng Đế Trung Hoa. Nhà Trịnh ở Hà Nội vẫn còn ở trong vị thế này, nhưng nhà Nguyễn miền nam có thể coi thường sự cấm đoán cổ xưa này và không cần biết đến Trung Hoa; họ có nhà Trịnh nằm ở giữa. Sự kiện này soi sáng sự thay đổi lớn lao mà cuộc Nam Tiến đã mang lại trong các quan hệ giữa vương quốc Trung Hoa và nước “triều cống” của nó, An Nam. Nước triều cống giờ đây là một vương quốc to lớn, và nửa miền nam của nó ha6′u như không tiếp cận với quyền lực Trung Hoa trực tiếp. Người Mãn Châu, một dân tộc đại lục, không bao giờ đi đường biển, cũng không duy trì các lực lượng hải quân lớn và hữu hiệu. Đế quốc Mãn Châu vào chính thời gian này đang sẵn sang dấn thân vào các chiến dịch xa xăm để chinh phục xứ Mông Cổ, vùng trung Á Châu và Tây Tạng. Một thế kỷ sau đó nó đã thực hiện một kỳ công đáng kể của việc vượt qua Hy Mã Lạp Sơn và chinh phục Nepal, nhưng nó không mưu toan tái chinh phục Việt Nam, bắc hay nam, nhà Trịnh hay nhà Nguyễn. Hệ thống, giờ đây đã được thử nghiệm trong nhiều thế kỷ, theo đó Việt Nam đã sẵn nhìn nhận quyền chủ tể của Hoàng Đế và tham gia trọn vẹn vào văn minh Trung Hoa đủ để thỏa mãn lòng kiêu hãnh và ít gây tốn kém cho hầu bao của các nhà cầm quyền Trung Hoa.

Sự loại trừ xứ Chàm, và sự sống sót lâu dài đến thế của nó, có liên hệ mật thiết với các sự may mắn của một đất nước mà Việt Nam đã có ít sự tiếp xúc trực tiếp trước đây, Căm Bốt. Sự ngừng nghỉ lâu dài trong cuộc Nam Tiến theo sau sự tiến bước tới vùng vĩ tuyến thứ 17 năm 1609, trước bước tiến lớn lao đến Đà Nẵng năm 1306, là một phần trong cùng thời kỳ mà nhà vua vĩ đại của Căm Bốt, Jayavarman VII đang theo đuổi cuộc chinh phục của ông ta tại miền nam xứ Chàm. Ông ta đã chiếm giữ nước đó cho đến khi từ trần, vào năm 1218, tuy thế Chàm đã dành lại được nền độc lập sau đó. Ngay trước thời trị vì của ông, Việt Nam đã phải dè chừng về quyền lực Căm Bốt như là một kẻ tranh dành sự thừa kế di sản Chàm. Trong suốt thế kỷ thứ mười hai, từ 1123 trở về sau khi Nhà Vua Suryavarman II tấn công chính An Nam (như sẽ được lập lại một lần nữa vào năm 1150), quyền lực Căm Bốt tích cực hoạt động tại phía nam của đất nước giờ đây là Việt Nam, cả hai bên đều chống lại người Chàm, và đôi khi liên minh với họ [người Chàm]. Sự thụ động tương đối của nhà Tống ở Trung Hoa, đúng ra nên khuyến khích người Việt đẩy mạnh cuộc Nam Tiến, đã được cân đối bởi sự tích cực của Căm Bốt trong vùng mà một cuộc Nam Tiến như thế sẽ nhắm tới. Vua Jayavarman VII đã là nhà chinh phục Căm Bốt vĩ đại cuối cùng; các chiến dịch của ông, và các kiến trúc của ông, đã làm khô cạn các tài nguyên của vương quốc, và trong thế kỷ thứ mười ba, Căm Bốt bước vào trước tiên một thời kỳ yên tĩnh kéo dài sang thế kỷ sau thành sự suy sụp. Sự giảm bớt áp lực của Căm Bốt này cho phép người Chàm phóng ra cuộc phản công vĩ đại sau cùng của họ vào Việt Nam trong năm 1371 tương tự như thế, sau khi cuộc chinh phục của nhà Minh vào Việt Nam bởi Hoàng Đế Vĩnh Lạc bị kết thúc trong năm 1427, việc này đã mang lại cho Việt Nam quyên tự do hành động cần thiết để chinh phục nước Chàm năm 1471.

Vào thời gian mà người Việt Nam tiến vào châu thổ sông Cửu Long, Căm Bốt, dưới áp lực thường trực của người Thái, các kẻ triều cống trước đây nay trở thành các kẻ địch hùng mạnh, đã bị bắt buộc từ bò Angkor; và các vị vua của nó đã được tạo lập một cách khá bấp bênh nơi hạ lưu sông Cửu Long, bao gồm phần lớn vùng ngày nay là châu thổ phía trên. Chính vì thế, người Việt Nam sau khi hủy diệt các lãnh địa Chàm đã lập ra một biên giới chung với một nước Căm Bốt suy yếu và bị quấy rối. Áp lực trước đây được đặt trên người Chàm đã được chuyển sang người Khmer, những kẻ dần dà bị buộc rời khỏi vùng châu thổ. Sự đối đầu giữa một Căm Bốt suy yếu và một Việt Nam đang bành trướng dưới các chúa nhà Nguyễn mang lại sự thù nghịch lâu dài giữa hai dân tộc. Người Khmer lo sợ cùng số phận của người Chàm, và nhìn thấy xứ sở lưu vực sông Cửu Long màu mỡ của chính họ như là khu vực kế tiếp cho sự bành trướng của Việt Nam; người Việt Nam không ngừng cuộc Nam Tiến, và dưới thời Pháp thuộc, vẫn tiếp tục trong thực tế cho xâm nhập các người định cư vào Căm Bốt.

Cuộc Nam Tiến, đặc biệt các giai đoạn về sau của nó khi một số tỷ lệ dân số bị trị bị đồng hóa vào dân Việt Nam chiến thắng, đã có ảnh hưởng làm loãng đi và thay đổi một cách tế vi tính chất văn hóa Trung Hoa mà người bắc Việt Nam đã chấp nhận quá lâu. Dân chúng của các tỉnh miền nam ít bị xâm nhập và kiểm soát nặng nề bởi tầng lớp học thức – học tập Khổng Học Trung Hoa – so với miền bắc. Các điền sản thì lớn hơn, tỷ lệ các nông dân cao hơn tỷ lệ các điền chủ. Hậu quả, văn hóa Khổng học miền bắc bị thách đố bởi một phần các giáo phái và khuynh hướng tiền-Việt Nam, một phần bởi các giáo phái và khuynh hướng mới tự phát ở miền nam. Đạo Phật nở rộ, và mang tính chất một tín ngưỡng bình dân như đối kháng lại một tín ngưỡng chính thức. Chắc chắn nó đã thu hút sức mạnh từ tính chất Phật Giáo của các phần tử Chàm và Căm Bốt trong dân chúng. Về sau các giáo pháo bản xứ đã phát sinh, một số hãy còn tiếp tục. Sau sự du nhập Ki-tô-giáo, đạo Công Giáo đã có sự tiến triển mau lẹ. Các chuyển động này có thể được nhìn một phần là vì sự suy giảm tác động của nền văn minh Trung Hoa thuần túy ở một khoảng cách xa xăm hơn với nguồn cội, và một phần vì các nguyên do xã hội, tính chất độc lập của một dân số nông dân mở đường khai phá đối lập với các sự cao ngạo của tầng lớp địa chủ.

Sự kiện rằng chính miền nam đã là nơi mà các du khách và các nhà mậu dịch Âu Châu đến đầu tiên, mang theo họ các tư tưởng mới và một tôn giáo mới, đã bổ túc cho sự khác biệt cấp miền đang phát triển này. Nó diễn ra vào khoảng hai mươi năm trước khi chức phó vương kinh lược (hay tổng trấn: viceroyalty) miền nam được thiết lập dưới sự lãnh đạo của họ Nguyễn (1558), rằng chiếc tàu Bồ Đào Nha đầu tiên đã cập bến duyên hải Việt Nam (1535). Các nhà truyền giáo đã sớm theo bước các kẻ hải hành ban đầu và tìm thấy vùng đất xa xôi phía nam, châu thổ sông Cửu Long, một cánh đồng tương đối phì nhiêu cho sự nỗ lực của họ. Các yếu tố phác họa ở trên làm suy yếu sự chống đối phổ thông đối với một tôn giáo mới, và sự dễ dàng và tiến bộ của các việc cải đạo Công Giáo tại miền nam chắc chắn phản ảnh một khía cạnh trong tính chất người dân miền nam Việt Nam, trong thực tế, đến tính chất của mọi người Việt Nam, đánh dấu một sự khác biệt rõ ràng giữa họ và chính dân tộc Trung Hoa. Có thể là một dân tộc sẽ luôn luôn ý thức một cách khó chịu về sự kiện rằng nền văn hóa của họ mang tính chất ngoại lai và nguyên thủy bị áp đặt bởi sự chinh phục. Các truyền thống tương tự của sự chống đôi, che dấu và bình dân hơn là công khai và quý tộc, đối với các nền văn hóa ngoại quốc bị áp đặt xuất hiện tại nhiều nơi trên thế giới (Ái Nhĩ lan (Ireland) là một thí dụ tốt). Một sự biểu lộ của thái độ này, có tầm quan trọng lớn lao đến văn hóa tương lai của Việt Nam và mối quan hệ của nó với Trung Hoa, đã là một hậu quả gián tiếp của nỗ lực truyền giáo.

Đối diện với sự khó khăn gấp đôi của sự phức tạp và phạm vi của văn tự biểu ý (ideographic) của Trung Hoa và sự kiện rằng phần lớn dân chúng mù chữ, các nhà truyền giáo đã quyết định tạo ra một cách ký âm bằng mẫu tự la mã cho tiếng Việt (là một ngôn ngữ cho phép làm việc này) và sáng chế ra Quốc Ngữ [tiếng Việt trong nguyên bản, ND], bản ký âm bằng mẫu tự la mã cho ngôn ngữ nói của Việt Nam. Sau đó họ đã phiên dịch các tài liệu tôn giáo thành tiếng Việt với sự sử dụng loại hệ thống chữ viết này. Một sự phát triển như thế sẽ không bao giờ khả thi tại Trung Hoa: trước tiên bản chất của một ngôn ngữ phần lớn là từ đồng âm (homophonic) tự nó không thích nghi với sự ký âm bằng mẫu tự [la tinh]; thứ nhì, sự kính trọng của người Trung Hoa và sự hãnh diện về hệ thống văn tự biểu ý của chính họ sẽ tức thời sỉ nhục bất kỳ sự ký âm mới nào là “man rợ”. Các nhà truyền đạo Công Giáo ban đầu tại Trung Hoa, đã đi theo một con đuờng đúng là đối nghịch với các đồng sự của họ ở Việt Nam, đã học tiếng Trung Hoa và trở thành các học giả tinh thông về văn chương và ngôn ngữ cổ điển. Quốc Ngữ đã được loan truyền một cách mau lẹ, và vượt quá phạm vi các khối người cải đạo Thiên Chúa. Nó đương nhiên khơi lên sự báo động của giới quan chức học theo Khổng Học và địa chủ, bởi nó đâm thọc vào các nền tảng thẩm quyền và uy tín của họ. Ngoài ra, nó không phải là một hệ thống được chấp nhận để ký âm ngôn ngữ Trung Hoa cổ điển, và vì thế không giúp ích gì cho các nhà giáo dục cổ truyền. Giống như bên Trung Hoa, ảnh hưởng quan trọng tối hậu của sự rao giảng đạo Ki-tô, hiện diện ngay từ các giáo sĩ Dòng Tên đầu tiên được tuyển dụng bởi Triều Đình như các nhà thiên văn và toán học, chính là việc gieo những hạt mầm quan tâm đến khoa học tự nhiên, tại Việt Nam cũng thế, ảnh hưởng quan trọng tối hậu là sự tạo lập (cũng từ các giáo sĩ đầu tiên) một công cụ thích hợp để phổ biến và tăng cường văn hóa dân tộc đối lập với văn minh ngoại lai có nguồn gốc Trung Hoa.

Ảnh hưởng đạo Thiên Chúa không lâu cũng đã được du nhập vào phần phía bắc của Việt Nam, nhưng không có vẻ hoàn toàn thật mạnh mẽ như là tại miền nam. Nó cũng gắn liền với sự tăng trưởng mậu dịch và sự xuất hiện của một tầng lớp thương nhân tại các hải cảng và các thành phố. Sự phân chia giữa các vị chúa Nguyễn ở phương nam với các quan nhiếp chính họ Trịnh chế ngự triều đình miền bắc làm mệt mỏi và gây cản trở cho các nhà mậu dịch, và xúc phạm đến cảm thức thống nhất của toàn thể người dân. Nó tiếp tục tạo khó khăn cho xứ sở với các cuộc nội chiến và phân tranh trong suốt thế kỷ thứ mười bảy cũng như phần đầu của thế kỷ thứ mười tám. Truyền thống Khổng học khinh miệt thương mại và chính quyền chỉ làm ít điều để hỗ trợ thương mại và nhiều điều gây phiền nhiễu và bóc lột tầng lớp thương nhân. Các du khách ngoại quốc ghi nhận về sự nghèo khổ của giới nông dân và nhận xét rằng các thương nhân, mặc dù thường giàu có, đã cố gắng tối đa để che dấu tình trạng của mình trước một chính quyền thù nghịch. Nơi đây, một lần nữa, sự nhấn mạnh thái quá trên một nét của nền văn hóa nhập cảng có thể được nhìn thấy ở Việt Nam. Tại Trung Hoa, tầng lớp quan chức có miệt thị về mặt tri thức các thương nhân, nhưng trong thực tế thường cộng tác với họ trong các cuộc kinh doanh béo bở và nhắm mắt làm ngơ trước các sự né tránh luật lệ chống lại việc tạo mãi đất đai và mua chức tước.

Các sự căng thẳng của xã hội Việt Nam, xảy ra một phần vì sự đình chỉ thực sự Cuộc Nam Tiến sau khi sáp nhập châu thổ sông Cửu Long hồi cuối thế kỷ thứ mười bảy (1622) đã bùng nổ khoảng tám mươi năm sau đó trong cuộc nổi dậy rộng lớn của Tây Sơn (1771-1802), lãnh đạo bởi ba anh em họ Nguyễn, các kẻ xem ra đã có một căn bản thương nhân. Cuộc nổi dậy của họ phát khởi tại miền nam và một phần dựa vào vùng núi rừng che phủ phía tây bắc châu thổ sông Cửu Long, từ đó phong trào mang tên là Tây Sơn, có nghĩa là núi phía tây]. Cuộc nổi dậy cực kỳ thành công trong nhiều năm. Sàigòn được chiếm giữ trong năm 1776, và mười năm sau đó quân nổi dậy, đã thực sự lật đổ các chúa Nguyễn ở miền nam, đã tấn công miền bắc và thu doạt kinh thành nhà vua ở Hà Nội vào năm 1786. Các quan nhiếp chính họ Trịnh quẫn trí và các kẻ ủng hộ họ sau đó đã cầu cứu Trung Hoa sang giúp đỡ họ. Hoàng Đế Càn Long của triều đại Mãn Châu, vị vua thứ ba trong bộ ba lãnh đạo vĩ đại của triều đại Mãn Châu, khi đó đang trên ngai vàng, vị thế ông đã chiếm ngự trong bốn mươi năm. Ông ta quyết định rằng cuộc nổi dậy của Tây Sơn và sự sụp đổ của tất cả quyền thế đã được thừa nhận mở ra một cơ hội khác cho sự can thiệp của Trung Hoa. Các đội quân trong thời trị vì của ông đã hoàn tất cuộc chinh phục Mông Cổ, Trung Á thuộc Trung Hoa, và Tây Tạng. Trong năm 1789, ông đã phái một đội quân to lớn sang bắc Việt Nam, nhưng đã đụng độ và bị đánh bại bởi các lực lượng Tây Sơn gần biên giới. Vua Càn Long đã từ bỏ bất kỳ sự can thiệp nào khác nữa.

Chỉ một hay hai năm sau đó các lượng sẽ đánh bại phong trào Tây Sơn đã khởi sự hành động. Một người Pháp phiêu lưu và là người xuất ngoại [émigré, tiếng Pháp trong nguyên bản, ND] trốn tránh cuộc Cách mạng Pháp, Pigneau de Behaine, đã thu gom ở lãnh địa chiếm hữu phía đông của Pháp tại Ấn Độ, vùng đất vẫn chưa chấp nhận cuộc Cách mạng, một lực lượng hỗn hợp các kẻ phiêu lưu Âu Châu dưới danh nghĩa phục vụ quân đội của Nguyễn Ánh, người tuyên nhận nối ngôi cuối cùng của các vị Chúa Nguyền ở miền nam đã bị sụp đổ, đã chạy trốn ra nước ngoài. Các cuộc đột kích hải quân và các cuộc xâm nhập quy mô nhỏ đã được tổ chức bởi Pigneau de Behaine và đồng minh người Việt của ông trên bờ biển phía nam. Họ nhận được vài sự hỗ trợ phần lớn từ các người cải sang đạo Thiên Chúa. Trong năm 1791, họ đã tái chiếm Sàigòn, và từ căn cứ then chốt này đã liên tục theo đuổi mục đích của họ, đột kích và xâm nhập vùng bờ biển trong mọi kỳ có gió mùa đông nam (mùa hè). Huế được chiếm giữ trong năm 1801; và chính Hà Nội trong năm kế tiếp, 1802, một biến cố đánh dấu sự kết thúc của nổi dây của Tây Sơn. Cuộc nổi dậy đó đã được tượng trưng bởi một khía cạnh chống Khổng học và mang tính dân tộc rõ rệt. Quốc Ngữ trở thành ngôn ngữ chính thức của nó thay cho tiếng Hán cổ truyền; một trong các anh em nguyên thủy đã phát động cuộc nổi dậy là một nhà sư Phật Giáo, và sự hậu thuẫn của các kẻ cải đạo theo Thiên Chúa cho cuộc phản cách mạng báo trước một sự sắp xếp hàng ngũ vẫn còn tồn tại cho đến thời điểm hiện tại.

Các sự kiện nổi bật khác về phong trào Tây Sơn là, trước tiên, tính chất toàn Việt Nam (pan-Vietnamese) đã được ý thức và thắng lợi. Nó tái thống nhất xứ sở, từ chối việc lưu giữ sự chia cắt của các chúa miền nam, và thiết lập kinh đô của nó tại Hà Nôi., trung tâm chính quyền cũ. Trong cung cách này, nó chắc chắn tiượng trưng cho một cảm nghĩ thống nhất rất sâu đậm trong dân chúng Việt Nam mà các sự chia cắt áp đặt liên tiếp đã không xóa nhòa được. Thứ nhì, phong trào bị đánh bại bởi sự can thiệp bên ngoài, và không phải bởi sự can thiệp của Trung Hoa, vốn đã bị đẩy lui. Các hoạt động của các lực lượng trên biển của Pigneau de Behaine chính vì thế đã báo trước cho sự chinh phục sắp đến của người Pháp, và sự chiến thắng bề ngoài của Nguyễn Ánh là khúc dạo mở màn cho sự thống trị của các đồng minh của ông. Sự kiện rằng nhà Trịnh thua trận đã nghiêng về việc đánh liều với các hậu quả của cuộc xâm lăng của Trung Hoa hơn là chấp nhận tính chất dân tộc của phong trào Tây Sơn cũng minh họa cho một khuynh hướng mới trong sự phát triển của lịch sử Việt Nam. Các phong trào dân tộc chủ nghĩa ngày càng trở nên đối nghịch với sự cai trị của các quan chức Hán hóa và một văn hóa hướng về Trung Hoa; khi trong thế kỷ thứ mười chin quyền lực của Trung Hoa thôi không còn là một vấn đề cấp bách, và sự xâm nhập của Pháp đã xảy ra, các phong trào dân tộc nổi dậy và phản kháng quay ra chống lại mối nguy hiểm ngoại lai mới.
Có các sự tương đồng giữa cuộc nổi dậy của Tây Sơn tại Việt Nam và cuộc nổi loạn Thái Bình Thiên Quốc tại Trung Hoa khoảng năm mươi năm sau đó. Cả hai đều là các phong trào bình dân dựa trên giới nông dân và đối nghịch với ý thức hệ Khổng học đang thống trị, cả hai đều tiến sát tới sự chiến thắng toàn vẹn và sự tái định hướng có hậu quả sâu đậm trên văn hóa đất nước họ. Cả hai đều phần lớn bị đánh bại bởi sự can thiệp của ngoại quốc dựa trên hải lực. Sàigòn nằm trong tay Pigneau de Behaine báo trước vai trò của Thượng Hải như căn cứ quân sự cho “Quân Đội Mãi Mãi Chiến Thắng” của Tướng Gordon” và cơ sở tài chính cho đội quân triều đình ở An Huy khá hùng mạnh và hữu hiệu tối đa của Lý Hồng Chương. Cả hai phong trào cũng hướng tới một thái độ mới, trong khi dấu mình trong các hình thức cổ xưa, từ đó các phong trào dân tộc và bình dân sau này đã lấy làm cảm hứng. Tây Sơn bao hàm lý tưởng của một Việt Nam thống nhất, có tính cách dân tộc về văn hóa và bình dân trong sự ủng hộ. Phong trào Thái Bình Thiên Quốc được nhìn nhận bởi Cộng Sản Trung Hoa ngày nay như các tiền thân, ngay dù thường đi sai đường, cho cuộc cách mạng thắng lợi của chính họ [cộng sản].

Nguyễn Ánh, người lên ngai vàng của một nước Việt Nam thống nhất, trong thực tế là công trình của các đối thủ của ông ta, đã trị vì với vương hiệu Hoàng Đế Gia Long của triều đại mới nhà Nguyễn. Các tổ tiên của ông đã là các vị chúa miền nam, ông đích thân dựng Huế làm kinh đô của mình, và bỏ rơi Hà Nội. Gia Long đã lập ra chính sách của mình để tăng cường tính chất Trung Hoa trong sự cai trị của ông trong mọi phương cách khả dĩ. Tước hiệu mới của ông là Hoàng Đế, điều có thể hơi tự phụ trong mắt nhìn của Trung Hoa, đã không gây ra sự giận dữ tích cực của các kẻ kế ngôi bị quấy nhiễu của vua Càn Long, cũng không ngăn cản một sự thừa nhận chính thức quyền chủ tể của Trung Hoa. Chính quyền được tập trung hóa một cách cứng ngắc; Nguyễn Ánh, hậu duệ của các vị chúa miền nam, đã không chủ định rằng các kẻ khác nên tranh dành lịch sử với gia tộc của chính ông. Hệ thống khảo thí Trung Hoa tuyển chọn quan lại trong Công Quyền được tái củng cố và tái dập khuôn theo các đường nét gần gủi với cách thức của Trung Hoa. Việc học tập Khổng học được nhấn mạnh, Phật giáo bị hạn chế và thường bị ngược đãi, chế độ, bất kể đến món nợ của nó với các kẻ đánh thuê người Pháp, trở nên chống lại Công giáo một cách rõ rệt. Tại miền nam, chính sách thực dân vùng châu thổ được gia tăng bởi việc thành lập các khu khẩn hoang với binh sĩ là nông dân dọc theo biên giới Căm Bốt và tại các vùng đất mới thưa dân dọc theo hạ lưu sông Cửu Long. Sự kháng cự tích cực chống lại cuộc chinh phục của Pháp mà các khu đồn điền đã chứng tỏ sau này cho thấy rằng Hoàng Đế Gia Long có thể đã sẵn hay biết là các tỉnh miền nam của ông bị mở ngỏ nhiều nhất trước hiểm họa ngoại bang, chứ không phải biên cương miền bắc với Trung Hoa dưới triều Mãn Châu.

Bốn hoàng đế kế tiếp nhau của Việt Nam đã trị vì và cai trị từ 1802 đến 1883, năm mà trong đó cuộc chinh phục của người Pháp hay chế độ bảo hộ cưỡng đặt, đã chấm dứt nền độc lập thực sự của Việt Nam. Vua Gia Long (1802-20) đã không liên hệ trực tiếp vào sự tranh chấp với Pháp, và theo đuổi chính sách độc đoán và cổ truyền nghiêm ngặt của mình, kể cả các biện pháp chống lại Công giáo, đã không bị quấy nhiễu. Hai người kế ngôi ngay sau ông, Minh Mạng, băng hà năm 1841, và Thiệu Trị, băng hà năm 1847, đã có thể kiềm chế các áp lực gia tăng một phần được phóng ra bởi các giáo sỉ và các kẻ cải đạo theo họ, phần khác phát sinh từ trạng thái lớn mạnh của chủ nghĩa đế quốc Âu Châu trong thế kỷ thứ mười chin, đang dâng cao quanh hai ông. Cho đến khi chấm dứt sự trị vì của vua Gia Long các cuộc Chiến Tranh Napoleon và sự kiệt quệ của nước Pháp bởi sự giao tranh lâu dài này khiến cho sự xâm lăng nước ngoài từ vùng đất đó [Pháp] trở nên bất khả thi. Cho đến khi Anh Quốc phát lộ nhược điểm nội tại của triều đình Mãn Châu tại Trung Hoa qua các chiến thắng dễ dàng của Anh trong Cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1840-2), các dân tộc Âu Châu hãy còn có sự kính trọng đối với sức mạnh của các đế quốc phương đông vốn có thể được chứng minh trong thế kỷ thứ mười tám, nhưng giờ đây đã trở nên lỗi thời. Điều quan trọng là sự khởi động quân sự đầu tiên của Pháp, một cuộc tấn công vào thành phố hải cảng Đà Nẵng, xảy ra trong năm 1847, chỉ năm năm sau sự bại trận của Trung Hoa trong cuộc Chiến Tranh Nha Phiến. Đó là một biến cố biệt lập, không có các hậu quả lâu dài, nhưng nó đã diễn ra vào năm mà Hoàng Đế Thiệu Tri bị mất, người kế ngôi ông, vua Tự Đức, vị quân vương độc lập cuối cùng của Việt Nam, sắp phải chiến đấu suốt cuộc đời mình chống lại sự xâm lấn gia tăng.

Trong năm 1858, Đô Đốc Rigault de Genouilly lại tấn công Đà Nẵng lần nữa, và trong năm kế tiếp chiếm giữ Sàigòn. Từ biến cố đó đã khởi sự một chuỗi các sự xâm lấn và sáp nhập mang vài nét tương đồng với sự nghiệp của Pigneau de behaine và chính vua Gia Long trong cuộc chiến của họ chống lại quân Tây Sơn mới sáu mươi ông. Năm 1864 sứ giả Pháp tại chỗ đã bị khuyến dụ để đồng ý một sự hoàn trả các năm trước đó. Sàigòn trên nên căn cứ địa; khu vực chinh phục được mở rộng chung quanh nó, và các vùng nội địa bị cắt rời khỏi quyền cai trị của chính quyền ở Huế. Năm 1862, miền đông của phần được gọi là Nam Kỳ, Sàigòn, Mỹ Tho và Biên Hòa, đã bị nhường cho Pháp bởi Hoàng Đế Tự Đức, người e sợ các sự xâm chiếm hơn nữa nếu ông kháng cự, và các hậu quả của chúng trên sự ổn định nội bộ của chế độ của khu vực này, và đã ký kết một văn kiện như thế. Hành vi của ông ta bị bác bỏ tại Paris, nơi mà một cuộc vận động chính trị của phe thực dân nhiều quyền thế đang thành hình. Ba năm sau đó, 1867 thống đốc Pháp tại Sàigòn với đề xuất của mình đã xâm lăng và chiếm đóng, sau đó, sáp nhập phần còn lại của vung châu thổ của Nam Việt Nam đến tận biến giới Căm Bốt. Cùng lúc một chế độ bảo hộ đã được áp đặt lên trên vương quốc yếu kém Căm Bốt, xứ trong thực tế gần như chào đón sự bảo hộ này, thoát ra khỏi các cuộc xâm lăng của Việt Nam và Thái Lan.

Điều có thể nhận thấy rằng các sự tiến bước quan trọng này của người Pháp đã diễn ra đồng thời với sự suy giảm của quyền lực chính trị của Trung Hoa bởi trước tiên cuộc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc trong thập niên 50 và những năm đầu của thập niên 60 của thế kỷ và sau đó bởi Cuộc Chiến Tranh Anh – Pháp chống lại Trung Hoa từ 1858 đến 1860, đã áp đặt các hạn chế mới và rộng rãi hơn trên đế quốc đang suy yếu này. Vua Tự Đức không thể hy vọng sự trợ giúp của Trung Hoa trong thời kỳ khó klhăn này. Mặt khác, thảm họa chủa chính nước Pháp trong năm 1870 [thất trận trước Đức, chú của người dịch] chỉ đòi hỏi một sự đình chỉ rất tạm thời tiến trình chinh phục và thống trị tại Việt Nam. Vào năm 1873 chính quyền tại Sàigòn đã đủ mạnh để loại bỏ mọi tàn tích của chính quyền Việt Nam và mang lại chế độ cai trị thực dân trực tiếp của người Pháp. Các viên chức (”các quan lại”) của Tự Đức đã từ chối hợp tác, và trong nhiều trường hợp, đã rút lui khỏi khu vực; vì thế người Pháp tuyên bố rằng sự kiện này đã tạo ra một khoảng trống chính quyền mà họ phải tự đảm nhận việc lấp đầy. Họ đã làm; thuế khóa đã tăng gấp mười lần trong hai mươi năm kế đó. Kỷ nguyên bóc lột của thực dân đã khởi đầu.

Trong cùng năm, 1873, người Pháp lần đầu tiên đã tiến hành chống lại miền bắc Việt Nam, nơi mà một sĩ quan hành động gần như độc lập với chính phủ quê nhà, nhưng không phải là không có sự hậu thuẫn chính trị tại Pháp, đã chiếm đóng Hà Nội. Anh ta đã bị hạ sát ở đó trong năm sau, và người Pháp đã di tản khỏi thành phố để đổi lấy một hiệp ước mới được ký kết bởi vua Tự Đức chấp thuận mậu dịch mở ngỏ và sư lưu hành tự do trên sông Hồng. Trong khi đó tại Trung Hoa đã có điều mà các sử gia Trung Hoa mệnh danh là Cuộc Phục Hồi vua Đồng Trị (Phục Hưng là một danh từ đúng hơn) theo sau sự trấn áp cuộc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc năm 1862 và sự trấn áp kế tiếp các cuộc nổi loạn nhỏ hơn của người Niệm (Nien Fei) tại miền trung Trung Hoa và của người Hồi Giáo tại các tỉnh phía tây và tại Vân Nam. Triều đình một lần nữa đã nắm được sự kiểm soát tình hình, và các phó vương kinh lược phục hồi chế độ đã thực hiện các nỗ lực thận trọng để hiện đại hóa quân đội và thiết lập ở mức tối thiểu công nghiệp tân tiến, chính yếu cho các sự trang bị vũ khí. Vua Tự Đức bị khuyến dụ để tin rằng Trung Hoa có thể, sau hết, một lần nữa đưa ra một đối lực trước các sự xâm lược của Pháp. Trong năm 1880, ông đã phái đi một sứ bộ triều cống, không phải chỉ đến biên giới, như tập quán lâu nay, mà còn đến tận Bắc Kinh. Điều này hiển nhiên là một sự biểu lộ về mặt chính trị lòng tin tưởng nơi Trung Hoa và một sự thỉnh cầu gián tiếp cho sự bảo hộ của Trung Hoa. Sự việc này làm tức giận phe thực dân chủ nghĩa của Pháp.

Trong vòng hai năm người Pháp, tố cáo chính quyền Việt Nam đã vi phạm Hiệp Ước (một duyên cớ tiêu chuẩn cho hành động vũ lực tại khắp vùng Viễn Đông trong thời kỳ này), đã chiếm giữ Hà Nội (1882), lần này với ý định ở lại đó; và mặc dù viên chỉ huy cuộc viễn chinh, Rivière, đã bị hạ sát trong năm kế tiếp, người Pháp đã không triệt thoái. Chiến tranh tại châu thổ Sông Hồng đã tiếp diễn trong gần hai mươi năm, người Pháp đã đụng độ với cuộc kháng chiến du kích được mô tả bởi các người đương thời bằng các từ ngữ có thể được dùng bởi người Hoa Kỳ ngày nay. Kẻ địch vô hình, biến dạng khi có sự xuất hiện của các lực lượng hùng mạnh, nhưng tái hiện khi các lực lượng này ra đi, những kẻ không thể bị phân biệt khỏi giới nông dân trên các cánh đồng, bởi vì chính anh ta là một người trong họ. Vua Tự Đức mất năm 1883 và các khó khăn của triều đại trong sự kế vị ông đã mở đường cho người Pháp chiếm đóng Huế và dựng lên một vị hoàng đế bù nhìn. Một vị tuyên nhận ngôi vị khác đã chạy trốn để lãnh đạo cuộc kháng chiến du kích cho đến khi từ trần [sic, để chỉ vua Hàm Nghi, sau bị bắt và bị đày sang Phi Châu, ND]. Trong khi đó, Trung Hoa đã can thiệp, bằng cả hoạt động của quân du kích phi chính quy được gọi là quân Cờ Đen (tự họ là thối thân của các nhóm Thái Bình Thiên Quốc tỵ nạn chạy trốn vào các vùng đồi núi ở biên giới) lẫn các lực lượng chính quy. Các lực lượng này đạt được một chiến thắng trên người Pháp tại Lạng Sơn, nhưng bộ chỉ huy của Pháp ở ngoài biển, giúp cho họ có thể pháo kích hải cảng Trung Hoa tại Phúc Châu và tấn công các khu vực duyên hải khác, cộng với các sự bận tâm của Trung Hoa tại Hàn Quốc để đối phó với Nhật Bản, khiến cho Triều Đình Trung Hoa sẵn lòng hòa giải, từ bỏ sự tuyên nhận của nó, kéo dài hàng nghìn năm, về quyền chủ tể trên Việt Nam. Biến cố này đã chính thức chấm dứt bất kỳ loại thẩm quyền nào tại xứ sở; sự áp đặt chế độ thống trị thực dân trực tiếp của người Pháp tại Bắc Kỳ năm 1887 và quyền lực bảo hộ gia tăng trên đế quốc An Nam thu nhỏ đặt tại Huế đã kết liễu, trong hơn năm mươi năm, nền độc lập của chính Việt Nam./-


Nguồn: C.P. FitzGerald, Chapter Two: Chinese Expansion By Land: Vietnam, các trang 19-38, The Southern Expansion of Chinese People, New York, Washington: Praeger Publishers, 1972


***

PHỤ CHÚ CỦA NGÔ BẮC :

Trên đây là bản dịch của một công trình nghiên cứu quan trọng, trình bày một cách súc tích tiến trình hình thành của Việt Nam với các ý nghĩa lịch sử then chốt theo nhịp biến thiên trong tác động của áp lực bành trướng thường trực xuống phía nam của Trung Hoa. Tác giả, C.P. FitzGerald là một giáo sư người Anh, được nhìn nhận như học giả hàng đầu và đã xuất bản nhiều tác phẩm kinh điển về văn hóa và địa lịch sử Trung Hoa trong thế kỷ thứ 20. Với sự hiểu biết uyên bác, tác giả đã ghi lại một cái nhìn thấu triệt khi đối chiếu các sự tương tác, các điểm tương đồng và dị biệt trong văn hóa và lịch sử tư tưởng của Trung Hoa và Việt Nam, nước thụ nhận gần như trọn vẹn văn hóa mà người Trung Hoa đã áp đặt lên họ. Bản dịch hai Chương khác trong cùng tác phẩm của tác giả có liên hệ nhiều đến Việt Nam, Sự Bành Trướng Của Trung Hoa Trên Đất Liền: Trường Hợp Vân Nam và Các Viễn Ảnh Về Sự Bành Trướng Xuống Phía Nam Của Trung Hoa, sẽ lần lượt được đăng tải nơi đây.

Về bản địa nguyên thủy, đặc biệt về biên giới phía bắc của chủng tộc Việt, người dịch xin ghi lại các nhận xét và khám phá mới của khoa học hiện đại, đặc biệt trong nhân chủng học, đã được công bố gần đây như sau:

1. Tác giả Trần Đai Sỹ, trong bài Thử Tìm Lại Biên Giới Cổ Của Việt Nam: Bằng Cổ Sử, Bằng Triết Học Và Hệ Thống ADN (hay DNA trong Anh ngữ) (đã phổ biến và có thể truy cập dễ dàng trên mạng internet), cho rằng:
[bắt đầu trích] “… Còn trong vòng 5000 năm trước Tây lịch cho đến nay, thì tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường Giang, Đông tới biển, Tây tới Tứ Xuyên, Nam tới vịnh Thái Lan. Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Người Mân Việt đi xuống Giao Chỉ. Người Việt di cư từ nam sông Trường Giang tránh lạnh xuông Bắc Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh thổ của họ, như cuộc di cư từ bắc vào nam năm 1954; chứ không phải họ là người Trung quốc di cư xuông Nam, lập ra nước Việt.” [hết trích]
Tác giả cũng có trưng dẫn các di tích còn lại đến ngày nay như đền có các câu đối thờ Hai bà Trưng tại Bồ Lăng (Fuling) thuộc thành phố Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên, ở Trường sa, ở Động Đình Hồ, tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa ngày nay, v.v… Chúng ta cũng còn các bài thơ của Lê Quý Đôn, Phan Huy Ích viết về các đên thờ Hai bà Trưng ở nam Trung Hoa khi các vị này biết đến trong dịp đi sứ sang Trung Hoa. Các bằng chứng này cho thấy nhiều phần địa bàn tranh đấu của Hai Bà Trưng nằm ở vùng Hoa Nam ngày nay hơn là ở vùng châu thổ sông Hồng như được lưu truyền.
Tác giả đã đề cập đến các cuộc nghiên cứu hệ thông DNA và đã đưa ra các kết luận như sau:
- (bắt đầu trích) “Theo sự nghiên cứu bằng hệ thống AND, từ cổ, giống người Trung Hoa, do giống người từ Đông Nam Á đi lên. Những người Đông nam Á lại đến từ châu Phi qua ngả nam Á vào thời gian hơn 20,000 năm trước.
- Người châu Phi đến Bắc Trung Hoa do ngả Âu Châu rồi vào Trung Á, khoảng 15,000 năm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa.” (hết trích)
Rất tiếc là các kết quả nghiên cứu hệ thống DNA đã không được trinh bày giống như trong các cuộc nghiên cưu khoa học khác, vì đây là những bằng chứng khả tỉn nhất, có sức thuyết phục vũng chắc nhất.

2. Tác giả W. W. Howells, trong bài Origins of the Chinese People: Interpretations of the Recent Evidence, đăng tải trong quyển The Origins of Chinese Civilizations, University of California Press: Berkeley, California & London, 1983, đã áp dụng các phương pháp nhân chủng học như đo sọ người thu thập được từ nhiều nơi trên đất Trung Hoa, để lấy số đo của chiều dài, chiều ngang và chiều cao của vòm sọ, chiều dài từ xương chẩm đên đầu mũi; chiều dài từ xương chẩm đến kẽ giữa răng cửa; chiều ngang và chiều dọc của khuôn mặt; chiều dài và chiều ngang của mũi, ổ mắt) (Xem Bảng 11.1 và 11.2 dưới đây).

Bảng 11.1: Các Số Đo Trung Bình Của Các Loạt Sọ Người Trung Hoa
http://dantoc.net/wp-content/uploads/cac-so-do1.jpg

Bảng 11.2: Các Độ Sai Trệch Tiêu Chuẩn của Chuỗi Số Đo Sọ Người Tại Đảo Hải Nam và An Dương, Trung Hoa, So Sánh Với Các Độ Sai Trệch Tiêu Chuẩn Trung Bình Trên Thế Giới Đã Được Tổng Quát Hóa
http://dantoc.net/wp-content/uploads/cac-do-sai.jpg

Tác giả cũng đã áp dụng các sự phân tích phân biệt của các hàm số biện biệt trên các số đo các sọ người từ các vùng quan trọng trên thế giới để đối chiêu với sọ người tại vùng An Dương (đời nhà Thương) và đảo Hải Nam, Trung Hoa, cũng như so sánh với các chi số của các người đang sống từ nhiều nơi tại Á Châu, dựa vào công trình nghiên cứu của tác giả Bowles (1977), nhằm tính các khoảng cách tổng quát hóa và áp dụng các kỹ thuật quy tụ, hầu xác định tính khả tín và ổn định của cuộc thí nghiệm.

Tác giả Howells đã tóm tắt như sau:
[bắt đầu trích]“Theo các kết quả, được đơn giản hóa ở đây, các dân sống ở vùng Đông Á Châu thuộc vào một loạt các khu vực theo trục bắc nam tổng quát sau đây:
1. Siberia (Tây Bá Lợi Á) và miền đất rừng phía đông (thí dụ, người Ainu; Ostyak, Yakut, Tungus,và v.v…; Koryak, Chukchi, Eskimo)
2. Biển Caspian Sea đến Mãn Châu (thí dụ, người Kalmuks, Uyghurs, Kazakhs, Mongols, Buriats)
3. Bắc Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản. Được gọi là “Các Dân Vùng Ở Giữa, Trung Gian: Intermediate Populations”)
4. Miền đông, tây, và nam Trung Hoa (giáp ranh với các dân thuộc vùng 3, nằm giữa các lưu vực của các con sông Hoàng Hà và Dương Tử
5. Vân Nam, Quý Châu, Việt nam (kẻ cả 3 phân chủng khác nhau trong các thổ dân Đài Loan) [in đậm để làm nổi bật bởi người dịch]
6. Đông Dương (trừ Việt Nam), Thái Lan, Mã Lai.
… Và tác giả Bowles nhìn nhận người Bắc Trung Hoa như “dân trung gian, ở giữa”: da họ trắng hơn các người phương nam, với mắt sáng hơn; về các số đo, ông nhận thấy số đo tương đương gần nhất là với người Uyghurs và Tây Tạng. Người Hàn quốc, ông nhận thấy, là trung gian giữa người Bắc Trung Hoa và dân Tungus. Mặt khác, người Nam Trung Hoa gần cận với các láng giềng không thuộc chủng Trung Hoa của họ (người Mèo và Thái-Shan) hơn là với người phương bắc.” [hết trích]

Điểm quan tâm chính yếu của chúng ta là theo các kết quả nghiên cứu trên, chủng tộc Trung Hoa được phân biệt thành hai nhánh, Bắc Trung Hoa và Nam Trung Hoa, và khác biệt với chủng tộc Việt cùng các người bản xứ ở Vân Nam và Quý Châu. Trong khôi dân thuộc tộc Việt ở miền số 5 này, phải cộng thêm các sắc dân bản địa thuộc phần lớn tỉnh Tứ Xuyên, các tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây và Quảng Đông mà chính người Trung Hoa ngày nay vẫn còn xem là Việt nhân, khi gọi là Việt Tây và Việt Đông, như nhiều cuộc khảo sát đã nêu ra nhiều bằng chứng khả tín. Tuy nhiên, cần phải có các cuộc nghiên cứu khoa học sâu xa hơn nữa để có được một kết luận quyết đoán.

3. Sách giáo khoa về lịch sử văn minh thế giới tại Hoa Kỳ trong các thập niên gân đây cũng đã chấp nhận các khám phá mới này, và có ấn hành bản đồ cổ xưa của Trung Hoa với sắc dân Hán hay Hoa (Trung Hoa) ở phía bắc sông Hoàng Hà, còn từ phía nam sông Dương Tử là lãnh địa của sắc dân Việt. Xin tham khảo, thí dụ, quyển World Civilizations của Peter Sterns, Chapter 13, The Spread of Chinese Civilization: Japan, Korea, and Vietnam, các trang 286-309.

Bản đồ Nam Việt cổ thời dưới đây được trích từ quyển Shadow of the Dragon: Vietnam’s Continuing Struggle with China and the Implications for U.S. Foreign Policy của Henry J. Kenny, Washington: Brassey’s, 2002 là một thí dụ khác./-

Bản Đồ 1: Bản Đồ Nam Việt Cổ Xưa, 111 trước Công Nguyên, trước khi bị chinh phục bởi Trung Hoa
http://dantoc.net/wp-content/uploads/aajgp1.bmp

Ngô Bắc dịch và phụ chú
17/8/2009
http://www.gio-o.com/NgoBac.html

Nguồn : anhbasam.tk





No comments: