Wednesday, June 18, 2025

TỔNG HỢP MỘT SỐ TIN QUỐC TẾ NGÀY 17/06/2025

 



TỔNG HỢP MỘT SỐ TIN QUỐC TẾ NGÀY 17/06/2025

 

                                                      ***

 

 

 

Cuộc chiến chính trị khốc liệt bên trong quân đội Trung Quốc

Katsuji Nakazawa  -  Nikkei Asia

Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch

17/06/2025

https://nghiencuuquocte.org/2025/06/17/cuoc-chien-chinh-tri-khoc-liet-ben-trong-quan-doi-trung-quoc/

 

Số phận của một sĩ quan quân đội mất tích đã được xác nhận tại đám tang của người tiền nhiệm của ông.

 

Giờ đây, ba tháng sau khi biến mất khỏi tầm mắt của công chúng, có thể khẳng định rằng tướng Hà Vệ Đông đã bị thanh trừng. Sự việc đang làm dấy lên một loạt đồn đoán ở cả trong và ngoài Trung Quốc.

 

Sự sụp đổ của vị tướng có tầm ảnh hưởng lớn trong quân đội một lần nữa nhắc nhở chúng ta rằng nơi nguy hiểm nhất đối với các tướng lĩnh cấp cao của Trung Quốc không phải là sở chỉ huy chiến trường, nơi đạn có thể bay lạc, mà là cuộc chiến chính trị nội bộ, nơi người ta có thể mất đi tất cả.

 

VIDEO :

Cuộc chiến chính trị khốc liệt bên trong quân đội Trung Quốc

https://www.youtube.com/watch?v=YJ0IYP0V5P0

 

Họ có thể bị tước danh dự, tài sản, và phải ngồi tù suốt quãng đời còn lại của mình nếu bị vướng vào cuộc đấu tranh giành quyền lực chính trị bên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc.

 

Tướng Hà, 68 tuổi, là một trong hai Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, cơ quan quân sự hàng đầu giám sát Quân Giải phóng Nhân dân. Chủ tịch nước Trung Quốc kiêm Tổng bí thư Tập Cận Bình hiện là Chủ tịch Quân ủy Trung ương.

 

 Họ có thể bị tước danh dự, tài sản, và phải ngồi tù suốt quãng đời còn lại của mình nếu bị vướng vào cuộc đấu tranh giành quyền lực chính trị bên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc.

 

Tướng Hà, 68 tuổi, là một trong hai Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, cơ quan quân sự hàng đầu giám sát Quân Giải phóng Nhân dân. Chủ tịch nước Trung Quốc kiêm Tổng bí thư Tập Cận Bình hiện là Chủ tịch Quân ủy Trung ương.

 

Vụ việc của Hà Vệ Đông đánh dấu sự kiện mới nhất trong một loạt các cuộc thanh trừng trong Quân Giải phóng Nhân dân dưới thời Tập. Điều đáng chú ý hơn cả là Hà là Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương đương nhiệm đầu tiên bị thanh trừng kể từ thời Cách mạng Văn hóa 1966-1976.

 

https://www.ft.com/__origami/service/image/v2/images/raw/https%3A%2F%2Fcms-image-bucket-production-ap-northeast-1-a7d2.s3.ap-northeast-1.amazonaws.com%2Fimages%2F_aliases%2Farticleimage%2F4%2F8%2F4%2F2%2F49652484-1-eng-GB%2Fphoto_SXM2025060900005563.png?source=nar-cms

Tập Cận Bình tham dự lễ tang của cựu Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Hứa Kỳ Lượng vào ngày 08/06. Lễ tang này dường như báo hiệu số phận của một phó chủ tịch khác.

 

Hà là sĩ quan quân đội có cấp bậc cao thứ hai sau Trương Hựu Hiệp, vị Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương còn lại. Ông cũng là một trong 24 thành viên của Bộ Chính trị đầy quyền lực của đảng. Ông đã được Tập bổ nhiệm vào các chức vụ chủ chốt và được xem là một trong những phụ tá thân cận, đáng tin cậy của Chủ tịch Trung Quốc.

 

Lần cuối cùng ông xuất hiện công khai trước công chúng là vào ngày 11/03, tại lễ bế mạc kỳ họp thường niên của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc, tức Quốc hội Trung Quốc.

 

Về mặt chính thức, Trung Quốc vẫn giữ im lặng về số phận của Hà, nhưng bằng chứng không thể chối cãi về sự sụp đổ của ông đã xuất hiện trong một buổi lễ mang đặc trưng của “chính trị hậu trường” của đảng.

 

Lễ tang của cựu Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Hứa Kỳ Lượng đã được tổ chức vào Chủ Nhật ngày 08/06, tại Nghĩa trang Cách mạng Bát Bảo Sơn ở Bắc Kinh, nơi an nghỉ dành riêng cho các cán bộ cấp cao của Đảng. Cái chết đột ngột của Hứa ở tuổi 75 đã được công bố vào ngày 02/06 vừa qua.

 

Tập và nhiều lãnh đạo Trung Quốc khác đã đến viếng Hứa trước khi thi hài ông được hỏa táng.

 

Đoạn video do Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) công bố cho thấy Tập đã cúi chào ba lần trước thi hài của Hứa, rồi chầm chậm bước đi.

 

Đoạn phim cũng cho thấy những vòng hoa phía sau Tập có ghi tên các thành viên Bộ Chính trị.

 

https://www.ft.com/__origami/service/image/v2/images/raw/https%3A%2F%2Fcms-image-bucket-production-ap-northeast-1-a7d2.s3.ap-northeast-1.amazonaws.com%2Fimages%2F_aliases%2Farticleimage%2F8%2F1%2F5%2F2%2F49652518-1-eng-GB%2Fphoto_SXM2025041600004438.jpg?source=nar-cms

Hà Vệ Đông tham dự lễ bế mạc Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh vào ngày 11/03. Đây là lần cuối cùng ông xuất hiện trước công chúng. (Ảnh của Tomoki Mera)

 

Tuy nhiên, vòng hoa của tướng Hà lại không hề xuất hiện. Trong bộ vest và cà vạt đen, Tập đã đi qua vị trí lẽ ra phải có vòng hoa của Hà. Cảnh tượng này dường như tượng trưng cho cuộc đấu tranh chính trị khốc liệt đang diễn ra đằng sau những cánh cửa đóng kín.

 

Cho đến khoảng hai năm trước, Hứa vẫn là sĩ quan cấp cao nhất trong quân đội. Nếu mọi chuyện vẫn bình thường, Hà có lẽ sẽ bày tỏ lòng tiếc thương đối với Hứa. Nhưng ông thậm chí còn chẳng thể gửi vòng hoa.

 

CCTV đã không cố gắng che giấu sự vắng mặt của một thành viên Bộ Chính trị trong đoạn phim ghi hình tang lễ. Mọi dấu hiệu đều cho thấy, trên thực tế, Hà Vệ Đông không còn được xem là thành viên Bộ Chính trị nữa, và các hoạt động của ông cũng bị hạn chế.

 

Sáu sĩ quan quân đội đã giữ chức Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương kể từ nửa sau nhiệm kỳ của cựu Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào. Cho đến nay, đã có ba người bị thanh trừng, gồm Quách Bá Hùng, Từ Tài Hậu, và giờ là Hà Vệ Đông.

 

Điều này cho thấy mối nguy chính trị liên quan đến việc đạt được hàm cấp tướng. Cả Quách Bá Hùng và Từ Tài Hậu đều đã trở thành mục tiêu trong chiến dịch chống tham nhũng của Tập vào khoảng năm 2015. Quách bị kết án tù chung thân, còn Từ qua đời vì bệnh ung thư trong lúc bị giam giữ.

 

Ngoài sáu sĩ quan quân đội, chính Tập cũng từng giữ chức Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương trong nhiệm kỳ 5 năm thứ hai của Hồ với tư cách là lãnh đạo tối cao của Trung Quốc.

 

Sự sụp đổ của Hà là một sự kiện quan trọng. Ông là Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương đương nhiệm đầu tiên bị thanh trừng kể từ Cách mạng Văn hóa đầy biến động, do Mao Trạch Đông phát động vào năm 1966 để giành thế thượng phong trong cuộc đấu tranh giành quyền lực. Cuộc chiến này đã kéo dài cho đến khi Mao, người sáng lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, qua đời năm 1976.

 

Năm 1967, khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương lúc bấy giờ là Hạ Long đã bị bức hại và giam giữ. Ông đã qua đời một cách bi thảm hai năm sau đó.

 

Bốn thập kỷ trước đó, Hạ Long là người chỉ huy lực lượng chủ chốt của cuộc Khởi nghĩa Nam Xương ở tỉnh Giang Tây và sau đó trở thành một trong những người sáng lập Quân Giải phóng Nhân dân.

 

Hà Vệ Đông, người gia nhập Quân Giải phóng Nhân dân khi mới 15 tuổi và thăng tiến qua nhiều cấp bậc, có lẽ không bao giờ nghĩ rằng cuối cùng mình sẽ phải đối mặt với số phận tương tự như Hạ Long.

 

https://www.ft.com/__origami/service/image/v2/images/raw/https%3A%2F%2Fcms-image-bucket-production-ap-northeast-1-a7d2.s3.ap-northeast-1.amazonaws.com%2Fimages%2F_aliases%2Farticleimage%2F5%2F3%2F5%2F2%2F49652535-2-eng-GB%2Fphoto_SXM2020111000020402.jpg?source=nar-cms

Tập Cận Bình, Trương Dương, và Hứa Kỳ Lượng tại trung tâm chỉ huy hợp đồng tác chiến của Quân ủy Trung ương vào ngày 20/04/2016. Sau này, Trương đã tự tử trong lúc bị quản thúc tại gia, còn Hứa thì qua đời đột ngột vào đầu tháng 6 vừa qua. (Ảnh chụp màn hình từ CCTV)

 

Có lẽ, kiểu hỗn loạn từng nhấn chìm Quân Giải phóng Nhân dân trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa một lần nữa lại khiến tổ chức này bị kìm kẹp.

 

Trong lúc nhiều quan chức quân sự cấp cao bị thanh trừng, một số người ở trong và ngoài Trung Quốc đang có xu hướng vô cảm, hoặc thờ ơ với diễn biến bên trong Quân Giải phóng Nhân dân.

 

Theo các nhà quan sát này, vụ việc của Hà Vệ Đông sẽ không làm thay đổi động lực chính trị của Trung Quốc, vì đây chỉ là một trong số nhiều vụ việc dẫn đến sự sụp đổ của nhiều vị tướng khác trong thập kỷ qua.

 

Quách Bá Hùng và Từ Tài Hậu đã được cựu Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân thăng lên cấp tướng – cấp bậc cao nhất của Quân Giải phóng Nhân dân. Sau khi nghỉ hưu, họ vẫn tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong quân đội, nhưng lòng trung thành của họ với Tập lại bị nghi ngờ.

 

Sau khi đàn áp hai nhân vật có ảnh hưởng này, chính quyền Tập tiếp tục nhắm tới nhiều mục tiêu khác trong quân đội.

 

Năm 2017, tướng Trương Dương, người khi đó đang giữ chức Chủ nhiệm Bộ Công tác Chính trị Quân ủy Trung ương, đã bị điều tra; sau đó ông đã tự tử trong lúc bị quản thúc tại gia.

 

Vào thời điểm đó, tướng Phòng Phong Huy, cựu Tham mưu trưởng Bộ Tham mưu Liên hợp Quân ủy Trung ương, một nhân vật thân cận với Quách Bá Hùng, cũng đang bị điều tra. Cuối cùng, ông đã bị tuyên án chung thân.

 

Trương và Phòng là những người được Hồ Cẩm Đào thăng hàm tướng.

 

Chiến dịch mạnh tay trấn áp các tướng lĩnh tham nhũng do hai người tiền nhiệm bổ nhiệm đã giúp Tập củng cố quyền lực chính trị một cách đáng kể.

 

Cuộc đàn áp trong Quân Giải phóng Nhân dân đã đạt đến bước ngoặt vào năm 2023 và 2024, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 20 vào tháng 10/2022, khi chiến dịch chống tham nhũng, công cụ đặc trưng của Tập để thâu tóm quyền lực, dần chuyển trọng tâm sang các quan chức thân cận với chính lãnh đạo tối cao.

 

https://www.ft.com/__origami/service/image/v2/images/raw/https%3A%2F%2Fcms-image-bucket-production-ap-northeast-1-a7d2.s3.ap-northeast-1.amazonaws.com%2Fimages%2F_aliases%2Farticleimage%2F1%2F0%2F5%2F2%2F49652501-1-eng-GB%2Fphoto_SXM2023031100006822.jpg?source=nar-cms

Trương Hựu Hiệp (giữa), Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương mới được bổ nhiệm, tuyên thệ với Hà Vệ Đông (trái) và Lý Thượng Phúc tại Đại Lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh vào ngày 11/03/2023. (Ảnh của Yusuke Hinata)

 

Bộ trưởng Quốc phòng lúc bấy giờ là Lý Thượng Phúc, và người tiền nhiệm của ông, Ngụy Phượng Hòa, đã bị nhắm tới và trừng phạt. Cả hai người đều được Tập bổ nhiệm vào chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng.

 

Trong một sự cố biểu tượng cho tình hình đang thay đổi, Miêu Hoa, Ủy viên Quân ủy Trung ương và Chủ nhiệm Bộ Công tác Chính trị Quân ủy Trung ương, đã bị đình chỉ chức vụ vào tháng 11 vì nghi ngờ “vi phạm kỷ luật nghiêm trọng.”

 

Kế đó, vào cuối tháng 5, Miêu, người được cho là đại diện chính trị của Tập trong quân đội, đột nhiên bị loại khỏi danh sách chính thức của các thành viên Quân ủy Trung ương. Không có lời giải thích nào được đưa ra.

 

Rõ ràng là Quân ủy Trung ương Trung Quốc đang trong tình trạng hỗn loạn.

 

Với việc Hà Vệ Đông bị thanh trừng, số lượng thành viên Quân ủy Trung ương đã giảm từ bảy xuống còn bốn ngay sau đại hội đảng toàn quốc vào tháng 10/2022.

 

Quân ủy Trung ương hiện tại bao gồm Chủ tịch Tập và ba sĩ quan quân đội. Chưa đầy ba năm sau đại hội đảng toàn quốc gần nhất, gần một nửa số thành viên Quân ủy Trung ương đã biến mất.

 

Nhưng mọi việc vẫn chưa lắng xuống. Một số nhân vật có ảnh hưởng khác, những người được xem là thành viên cốt cán của phe Tập trong Quân Giải phóng Nhân dân, cũng đã biến mất không lời giải thích.

 

Trong số các lực lượng quân sự trên thế giới, Quân Giải phóng Nhân dân là trường hợp độc nhất. Họ là quân đội của đảng và do đó trung thành với đảng. Vậy nên, để tồn tại về mặt chính trị, các sĩ quan quân đội Trung Quốc phải duy trì lòng trung thành này.

 

--------------------------------

Katsuji Nakazawa là nhà báo và biên tập viên cấp cao của Nikkei, hiện sinh sống tại Tokyo. Ông đã dành bảy năm làm phóng viên thường trú ở Trung Quốc và sau đó trở thành trưởng văn phòng Trung Quốc. Ông đã nhận Giải Nhà báo Quốc tế Vaughn-Ueda năm 2014.

 

 

 

========================

 

 

 

 

 

 

Đài Loan chỉ còn 12 đối tác ngoại giao. Ai sẽ là người bỏ rơi họ tiếp theo?

Nathan Attrill  |  The Strategist

Viên Đăng Huy, biên dịch

16/06/2025

https://nghiencuuquocte.org/2025/06/16/dai-loan-chi-con-12-doi-tac-ngoai-giao-ai-se-la-nguoi-bo-roi-ho-tiep-theo/

 

Đằng sau cuộc chiến công khai của Đài Loan để được quốc tế công nhận là một cuộc cạnh tranh song song tại các quốc gia rải rác khắp Caribe và Thái Bình Dương. Đây là chiến dịch không ngừng nghỉ của Bắc Kinh nhằm cô lập Đài Loan về mặt ngoại giao—từng quốc gia một—cho đến khi Đài Bắc không còn quốc gia nào chính thức công nhận và không còn tiếng nói quốc tế. Kể từ năm 2016, Đài Loan đã mất đi sự công nhận của 10 quốc gia về tay Trung Quốc; chỉ còn 12 quốc gia. Câu hỏi đặt ra không phải là liệu con số đó có giảm nữa hay không, mà là quốc gia nào sẽ rời bỏ tiếp theo.

 

Vào những năm 1970, Mỹ, Úc và các quốc gia khác đã chuyển sang công nhận Trung Quốc, dấu hiệu cho thấy Đài Loan đang dần bị gạt ra ngoài lề trên trường ngoại giao. Mặc dù nhiều quốc gia duy trì quan hệ không chính thức, việc thiếu sự công nhận chính thức càng củng cố nhận định rằng vị thế của Đài Loan là một vấn đề chưa được giải quyết trong trật tự quốc tế—một sự mơ hồ mà Bắc Kinh lợi dụng để cô lập Đài Loan hơn nữa.

 

Để phù hợp với mục tiêu của Bắc Kinh, mỗi lần một quốc gia cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan lại càng củng cố nhận thức rằng Đài Loan không phải là một nhà nước hợp pháp mà chỉ là một tỉnh ly khai đang chờ đợi sự thống nhất không thể tránh khỏi. Mỗi lần mất đi một đồng minh làm suy yếu khả năng của Đài Loan trong việc vận động tại các diễn đàn quốc tế, củng cố thêm cái gọi là “nguyên tắc Một Trung Quốc” của Bắc Kinh, và phát đi tín hiệu cho các quốc gia khác rằng việc đứng về phía Bắc Kinh vừa mang lại lợi ích lại là điều tất yếu.

 

XEM TIẾP >>>>>   

 

 

 

 

 

==============================

 

 

 

Canada cần nhiều thế giới hơn: Hội nghi thượng đỉnh của Mark Carney   

Colin Robertson | DCVOnline 

Posted on June 16, 2025

https://dcvonline.net/2025/06/16/canada-can-nhieu-the-gioi-hon-hoi-nghi-thuong-dinh-cua-mark-carney/

 

Đối với Thủ tướng Mark Carney, tháng 6 không những là thời điểm thực hiện lời hứa của ông về thương mại nội địa và giảm thuế mà còn là thời điểm diễn ra một tháng hội nghị thượng đỉnh để giới thiệu một diện mạo mới của Canada với thế giới.

 

Carney sẽ tổ chức G7 tại Kananaskis, Alberta, vào ngày 15-17 tháng 6, sau đó thủ tướng Carney gặp giới nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu tại Brussels vào ngày 23 tháng 6, trước khi đến Hague để tham dự Hội nghị thượng đỉnh NATO vào ngày 24-25 tháng 6. Cả ba hội nghị thượng đỉnh sẽ thử thách khả năng ngoại giao của ông và tuyên bố của ông rằng “Canada sẵn sàng đảm nhận vai trò lãnh đạo trong việc xây dựng liên minh những quốc gia có cùng chí hướng, chia sẻ giá trị của chúng ta.”

 

Bối cảnh địa chính trị rất ảm đạm: chủ nghĩa dân túy, phân cực, chủ nghĩa bảo hộ và chiến tranh liên tục xẩy ra trên ba châu lục. Và với Tổng thống Mỹ Donald Trump, chúng ta không còn có thể trông đợi vào sự hỗ trợ của Mỹ khi nói đến thương mại và an ninh chung trên thế giới.

 

Trong nhiều thập niên, thế giới đã trông chờ vào những hội nghị thượng đỉnh G7 và NATO định hướng, hành động và cứu trợ. Nhưng không còn sự đồng thuận nào nữa cho tín điều sáng lập G7 về thương mại tự do hơn, thị trường mở, sự tiến bộ của nền dân chủ và trong những năm gần đây là biến đổi khí hậu.

 

Sau nửa thế kỷ hoạt động, G7 cần được điều chỉnh lại nhưng,với tính cách và quan điểm khác biệt của những nhân vật lãnh đạo, điều đó sẽ không xẩy ra ở Kananaskis.

 

Sẽ không có thông cáo chung; Thủ tướng MarkCarney, đã quyết định bỏ hình thức đó và thay bằng bản tóm tắt của chủ tọa cùng với những tuyên bố khác theo chủ đề — nhằm tránh những rào cản thường thấy do Tổng thống Mỹ Trump miễn cưỡng ký những văn bản thống nhất hoặc rút lại sau khi đã ký thông cáo chung ở G7 năm 2018 ở Charlevoix.

 

XEM TIẾP >>>>>  

 

 

 

===============================

 

 

 

Khi Trump ‘chơi khô máu’ với người nhập cư

Trúc Phương/Người Việt

June 17, 2025 : 3:14 PM

https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/khi-trump-choi-kho-mau-voi-nguoi-nhap-cu/ 

 

Trong tám năm cầm quyền, Tổng Thống Barack Obama đã trục xuất gần ba triệu người. Và dưới thời Tổng Thống Joe Biden, chính quyền Mỹ trục xuất tổng cộng 4,677,460 người – theo số liệu tính đến Tháng Bảy, 2024 (nguồn: “Fact Check: Did Trump Deport More Migrants Than Biden?” – Newsweek).


https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2025/06/BL-Nong-Trai-Cali-1536x942.jpg

Người nhập cư là những lao động thiết yếu cho kinh tế Mỹ, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp như ở California. (Hình minh họa: Frederic J. Brown/AFP via Getty Images)

 

Dữ liệu cụ thể cho thấy chính quyền Trump đã nói dối hoàn toàn về việc trục xuất người nhập cư bất hợp pháp của các chính quyền tiền nhiệm. Nó cũng cho thấy cách làm hung hãn của Trump mới chính là nguyên nhân gây nên bạo loạn.

 

 

Người nhập cư có phải là “thứ súc vật” như Trump nói?

 

Bài viết của Wall Street Journal ngày 11 Tháng Sáu về Home Depot cho thấy nhiều điều: Lực lượng lao động “chờ việc” ngoài các bãi đậu xe Home Depot đang biến mất. Đây là nhóm người sống bên lề pháp luật nhưng luôn là lực lượng cần thiết: Vừa giúp nhà thầu tiết kiệm chi phí, vừa giúp nền kinh tế vận hành nhanh gọn. Câu chuyện của Home Depot chỉ là phần rất nhỏ của bức tranh lớn hơn nhiều.

 

Người nhập cư không giấy tờ đang “phá hoại” nước Mỹ? Không. Họ trồng trọt, thu hoạch mùa màng, giúp cung cấp thực phẩm, xây dựng nhà cửa, chăm sóc trẻ em và người già. Họ đóng góp hàng tỷ đôla tiền thuế, mở doanh nghiệp tạo việc làm cho chính người Mỹ, và giúp tái thiết sau các thảm họa khí hậu.

 

Trump mô tả nhập cư như mối đe dọa sống còn với nước Mỹ, cho rằng họ “cướp việc làm,” “không phải con người” và “đầu độc dòng máu đất nước.” Trump thậm chí gọi họ là “súc vật.” Nhưng thực tế, nếu toàn bộ người lao động nhập cư bị trục xuất, đời sống Mỹ sẽ sụp đổ – kể cả đối với những người gào thét đòi tống cổ người nhập cư.

 

Theo báo cáo từ Trung Tâm Tiến Bộ Mỹ (Center for American Progress), việc trục xuất bảy triệu lao động sẽ khiến việc làm toàn quốc giảm như hồi Đại Suy Thoái thập niên 1930. GDP sẽ ngay lập tức giảm 1.4%, và sau đó giảm 2.6%. Trong 20 năm, nền kinh tế Mỹ sẽ co lại gần 6% – tương đương 1.6 nghìn tỷ. Kế hoạch của Trump sẽ gây thiếu hụt nghiêm trọng lao động lương thấp, dẫn đến “suy thoái kinh tế và làm lạm phát bùng nổ trở lại,” theo Robert J. Shapiro, cựu thứ trưởng Thương Mại dưới thời Clinton (nguồn: “How Trump’s ‘Mass Deportation’ Plan Would Ruin America,” Mother Jones).

 

“Trục xuất hàng loạt sẽ là cú sốc thị trường lao động được người lao động Mỹ hoan nghênh,” Stephen Miller (cố vấn của Trump về chính sách nhập cư) nói với The New York Times. Tuy nhiên, hầu hết giới kinh tế gia không đồng tình. “Chỉ có chính trị gia mới nói vậy vì họ nghĩ nhiều người tin điều đó,” Michael Clemens, nhà kinh tế tại Đại Học George Mason, nhận định. “Điều này hoàn toàn không dựa trên nghiên cứu hay thực nghiệm nào.”

 

Thay vì tạo cơ hội việc làm, một nghiên cứu cho thấy trục xuất 11 triệu người nhập cư không giấy tờ có thể khiến công dân Mỹ mất 968,000 việc làm, và con số này sẽ tăng mỗi năm nếu chính sách tiếp diễn.

 

Người nhập cư không giấy tờ đang hỗ trợ nước Mỹ như thế nào?

 

-An sinh xã hội: Người nhập cư không giấy tờ đóng $25.7 tỷ tiền thuế an sinh xã hội, dù họ không được hưởng quyền lợi.

 

-Thuế: Năm 2022, họ đóng góp $96.7 tỷ thuế – $59.4 tỷ cho liên bang và $37.3 tỷ cho chính quyền địa phương và các tiểu bang.

 

-Lao động thiết yếu: Trong đại dịch COVID-19, hơn năm triệu người nhập cư không giấy tờ làm việc trong các ngành thiết yếu. Khoảng 343,000 người thuộc chương trình DACA (Deferred Action for Childhood Arrivals) cũng ở tuyến đầu chống dịch.

 

Một nghiên cứu gần đây dự báo nếu 7.5 triệu lao động bị trục xuất, lạm phát sẽ tăng 3% trong hai năm. Giá dịch vụ sẽ tăng gần 10% vào năm 2029.

 

Chưa hết, một nửa lao động nông nghiệp Mỹ là người nhập cư không giấy tờ. Việc trục xuất hàng loạt sẽ làm giảm sản xuất trong nước và tăng phụ thuộc vào nhập khẩu. Pierre Mérel, chuyên gia kinh tế nông nghiệp tại Đại Học California-Davis, ước tính nếu lực lượng lao động nông nghiệp giảm 50%, giá các loại cây trồng thu hoạch thủ công sẽ tăng 21%. “Nếu [lao động nhập cư] biến mất chỉ sau một đêm,” Andrew Mickelsen, chủ trang trại khoai tây ở Idaho, nói, “ngành nông nghiệp sẽ bị tàn phá… Tôi không nghĩ chúng ta có thể sản xuất đủ thực phẩm.”

 

Còn nữa, khoảng 350,000 người nhập cư không giấy tờ làm việc trong lĩnh vực y tế, với hơn 2/3 là nhân viên y tế hoặc hỗ trợ y tế. Hơn 160,000 người làm công việc dọn dẹp và giúp việc gia đình. “Họ là những người thu hoạch cây trồng, nhân công chế biến thực phẩm, dọn phòng khách sạn, và thậm chí thay tã cho người già. Rebecca Shi, giám đốc Liên Minh Doanh Nghiệp Nhập Cư Mỹ, nói: “Khi Trump nói về trục xuất hàng loạt, ông ta đang nói về việc xóa bỏ chất lượng sống mà người Mỹ đang có.”

 

Có đến 1/5 nguồn lao động nhập cư không giấy tờ – 1.4 triệu người – đang làm việc trong ngành xây dựng, chiếm hơn 10% lực lượng lao động và 32% thợ lợp mái. Trong bối cảnh ngành xây dựng thiếu hụt khoảng 500,000 lao động, kế hoạch trục xuất của Trump sẽ khiến việc xây dựng nhà ở mới ngưng trệ, làm trầm trọng thêm khủng hoảng nhà ở giá rẻ.

 

 

Joshua Correa, một nhà thầu ở Dallas, ước tính một ngôi nhà giá $300,000 có thể tăng thêm $40,000-$45,000 nếu chỉ một phần lực lượng lao động nhập cư bị trục xuất. Chỉ riêng tiểu bang Arizona, khoảng 100,000 chủ nhà là người nhập cư không giấy tờ. Nếu họ bị trục xuất và nhà bị tịch thu, thị trường nhà ở tiểu bang này sẽ thiệt hại $44.2 tỷ.

 

Trẻ em cũng bị tổn thương nghiêm trọng. Hơn 3.4 triệu người nhập cư không giấy tờ có con nhỏ sinh ra tại Mỹ. 80% người nhập cư không giấy tờ đã vào Mỹ trước năm 2010, và gần 10 triệu công dân hoặc cư dân hợp pháp sống trong các hộ gia đình. Một nghiên cứu cho thấy chương trình trục xuất hàng loạt sẽ khiến thu nhập trung bình của các hộ gia đình giảm gần một nửa, đẩy hàng triệu gia đình vào cảnh nghèo đói.

 

Ai kích động bạo lực?

 

Vấn đề lớn nhất cần nói không chỉ là nên hay không trục xuất người nhập cư bất hợp pháp mà là làm như thế nào. Thời Tổng Thống Joe Biden, chính quyền Mỹ trục xuất tổng cộng 4,677,460 người nhưng ICE không tạo ra sự khủng bố ghê rợn như cách mà chính quyền Trump đang làm. Chính quyền Obama hay Biden cũng không nhổ nước bọt vào mặt người nhập cư và gọi họ là “bọn súc vật.” Chỉ đám người vô nhân tính mới gọi đồng loại như vậy.

 

“Cuộc chiến đường phố” ở Los Angeles đã không xảy ra nếu nhân viên ICE không thực hiện hàng loạt cuộc bố ráp và hùng hổ vây bắt họ tại nơi làm việc. Phó Chánh Văn Phòng Tòa Bạch Ốc Stephen Miller – một trong những kiến trúc sư cứng rắn nhất trong chính sách nhập cư của Trump – liên tục gào lên: “Sao chưa đến Home Depot? Sao chưa đến 7-Eleven?”; trong khi Tom Homan, viên chức phụ trách vấn đề biên giới, thì nhấn mạnh bằng giọng đe dọa: “Quý vị sẽ thấy hoạt động bố ráp nơi làm việc nhiều chưa từng có trong lịch sử Mỹ…”

 

Cách thức truy bắt bất cận nhân tình nhắm vào người nhập cư, dù họ sống ở Mỹ hợp pháp hay không, đã nhanh chóng thổi bùng biểu tình và dẫn đến bạo lực giữa người dân và lực lượng chấp pháp. Cần nhắc lại, trong số những người bị bắt có David Huerta – Chủ tịch Liên Minh Công Nhân SEIU California và SEIU-United Service Workers West, đại diện cho hơn 750,000 lao động dịch vụ trên toàn tiểu bang California.

 

Trong khi đó, Trump liên tục khuấy động thêm căng thẳng. Trên Truth Social, Trump gọi Thống Đốc California Gavin Newsom và Thị Trưởng Los Angeles Karen Bass là “đám bất tài,” đồng thời cáo buộc – không đưa ra bằng chứng – rằng những người biểu tình là “bọn quấy rối được trả tiền”!

 

Việc sử dụng quân đội trấn áp biểu tình là màn tưới thêm xăng vào đám cháy. Trump tiếp tục tạo ra khủng hoảng. Một số người biểu tình chống lại các cuộc bố ráp của ICE tại Los Angeles đã có hành vi bạo lực – có người bị bắt vì ném bom xăng, có người lái xe gắn máy lao vào cảnh sát. Những hành vi như vậy đáng bị lên án, không chỉ vì nó sai về mặt đạo đức mà còn vô cùng phản tác dụng.

 

Tuy nhiên, việc đưa quân đội xuống đường để kiểm soát tình hình là điều hoàn toàn không cần thiết. Ngày 7 Tháng Sáu, Sở Cảnh Sát Los Angeles nói rằng hầu hết các cuộc biểu tình trong thành phố “diễn ra trong ôn hòa” khi người dân thực hiện quyền Tu Chính Án Thứ Nhất (tự do biểu đạt) một cách có trách nhiệm. Ấy vậy mà ngay trong ngày đó, một tổng thống vẫn ngang nhiên vượt quyền một thống đốc tiểu bang (lần đầu tiên trong 60 năm) khi tung ra Vệ Binh Quốc Gia California, lực lượng vốn chỉ nên cần đến khi có “nổi loạn hoặc nguy cơ nổi loạn chống lại chính quyền liên bang.” Đến ngày 9 Tháng Sáu, chính quyền Trump còn điều thêm 700 Thủy Quân Lục Chiến.

 

Hệt như chế độ Trung Quốc, Nga hay Việt Nam, với chính quyền Trump, biểu tình không nhất thiết phải bạo loạn mới bị coi là “nổi dậy bất hợp pháp.” Bản ghi nhớ triệu tập Vệ Binh Quốc Gia đã viện dẫn không chỉ những hành vi bạo lực mà cả bất kỳ hình thức biểu tình nào “cản trở lực lượng chấp pháp.” Theo định nghĩa đó, ngay cả những cuộc biểu tình ôn hòa quanh các địa điểm ICE bố ráp cũng có thể bị gán nhãn “phản loạn.”

 

Nhà bình luận Michelle Goldberg viết trên The New York Times (“This Is What Autocracy Looks Like”):

 

Chính quyền Trump có đủ lý do để gieo rắc nỗi sợ hãi nhằm ngăn người dân tham gia phản kháng. Bạo lực, nếu xảy ra, chỉ giúp củng cố chính nghĩa giả tạo của họ; ngược lại, biểu tình ôn hòa mới là thứ họ sợ nhất, vì nó bóc trần sự dối trá mà họ đang cố nhồi nhét vào xã hội Mỹ… Trump là bậc thầy trong việc tạo ra những màn kịch chia rẽ để nuôi dưỡng đám đông trung thành… Nhưng dư luận không phải thứ bất biến. Vì vậy, những người có tiếng nói – từ chính trị gia, cựu binh, đến giới văn hóa, tôn giáo – cần cất tiếng mạnh mẽ tố cáo cuộc lạm quyền trắng trợn này… [kn]

 

 

 

 

=========================

 

 

 

 

Brad Lander, ứng cử viên thị trưởng TP New York bị các viên chức giấu mặt bắt giữ tại tòa án di trú

Alex Woodward   |   Independent

Trúc Lam chuyển ngữ

18/06/2025

https://baotiengdan.com/2025/06/18/brad-lander-ung-cu-vien-thi-truong-tp-new-york-bi-cac-vien-chuc-giau-mat-bat-giu-tai-toa-an-di-tru/

 

HÌNH :

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/06/1-80.jpg

Ông Brad Lander, kiểm toán viên được dân bầu của Thành phố New York đã bị các đặc vụ liên bang bắt giữ tại tòa án di trú ở Manhattan ngày 17-6-2025. Nguồn: AP

 

Tóm tắt: Cơ quan giám sát tài chính của thành phố bị các viên chức giấu mặt tấn công ở Manhattan

 

Các viên chức liên bang mang mặt nạ vật lộn với kiểm toán viên thành phố New York và là ứng cử viên thị trưởng Brad Lander, còng tay ông bên trong tòa án di trú ở Manhattan hôm thứ Ba [ngày 17-6-2025].

 

Người giám sát tài chính của thành phố được dân bầu ra và là một trong những ứng cử viên đảng Dân chủ cho chức thị trưởng, đã vào tòa nhà công cộng để quan sát các phiên điều trần về di trú khi ông bị các viên chức ICE mang mặt nạ, cũng như các đặc vụ FBI và Bộ Tài chính mang mặt nạ tiếp cận.

 

Vụ bắt giữ ông diễn ra chỉ vài ngày sau khi các đặc vụ liên bang tấn công Thượng nghị sĩ California Alex Padilla, đè ông xuống đất và còng tay ông khi ông đang đặt câu hỏi cho Bộ trưởng An ninh Nội địa Kristi Noem trong một cuộc họp báo về các vụ biểu tình ở tiểu bang của mình. Thượng nghị sĩ Padilla đang phát biểu tại Thượng viện Hoa Kỳ về trải nghiệm của chính mình khi các đặc vụ liên bang ập đến bắt ông Lander.

 

Ông Lander nắm tay nhân viên của mình và một người nhập cư bị nhắm tới để bắt giữ ngay sau phiên tòa. Khi các đặc vụ tiến vào để kéo Lander ra khỏi hành lang, ông hét lên, “cho tôi xem lệnh của ông, cho tôi xem phù hiệu của ông“.

 

Tôi sẽ buông ra nếu các ông cho tôi xem lệnh của tòa án“, ông nói trong đoạn phim về vụ bắt giữ. “Tôi muốn xem lệnh, rồi tôi sẽ buông tay ra“.

 

Ông Lander liên tục hỏi các đặc vụ rằng ông bị đưa đi đâu và theo thẩm quyền nào, vì các nhân viên di trú không có thẩm quyền bắt giữ công dân Hoa Kỳ.

 

Ông nói: “Tôi không cản trở, tôi đang đứng ngay tại hành lang này. Các ông không có thẩm quyền bắt giữ công dân Hoa Kỳ khi họ yêu cầu lệnh của tòa án“.

 

VIDEO :

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/06/Brad-Lander.mp4?_=1

 

Phát biểu bên ngoài tòa án, vợ của ông Lander là Meg Barnette, cho biết, ông Lander đã bị thẩm phán di trú “trừng phạt” cùng với những người khác và bị đe dọa sẽ khóa cửa vì họ vào phòng xử án.

 

Sau khi ông Lander rời khỏi phòng xử án cùng nhân viên, các đặc vụ đã vây quanh ông và một di dân, là người có vụ án đã bị bác bỏ, bà cho biết.

 

https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/06/1-79.jpg

Ảnh: Ông Brad Lander, ứng cử viên Thị trưởng TP New York. Nguồn: NYEB

 

Ông Lander đã quan sát thủ tục tố tụng ở tòa nhiều lần và bà Barnette cũng tham gia sau khi bà “cảm động và kinh hoàng” trước những câu chuyện từ bên trong tòa án di trú, nơi các vụ án về di dân thường bị bác bỏ nhanh chóng với hướng dẫn không đầy đủ và sau đó bị trục xuất ngay lập tức, bà cho biết.

 

Bà nói: “Tôi biết rằng có thể ông ấy sẽ ổn, và tất cả những người khác trong tòa nhà đó đều gặp rủi ro là gia đình họ tan nát vì lời giải thích không thỏa đáng. Thật là một điều ghê tởm. Những gì tôi thấy thật kinh hoàng và không thể chấp nhận được… Những gì tôi thấy hôm nay không phải là pháp quyền. Đó không phải là thủ tục tố tụng”.

 

Jumaane Williams, luật sư công được bầu của Thành phố New York đã lên án việc thực thi luật nhập cư “vô đạo đức” dưới thời Tổng thống Donald Trump và kêu gọi các quan chức thả Lander.

 

Ông nói: “Những gì đang xảy ra trên đất nước này, những gì đang xảy ra trong tòa nhà đó, đơn giản là không thể chấp nhận được. Đó là vô đạo đức. Chúng ta không nên tuân theo những mệnh lệnh vô đạo đức từ một vị tổng thống vô đạo đức”.

 

 

 

==============================

 

 

 

 

Hồi kết cho thế kỷ dài của nước Mỹ

Robert O. Keohane và Joseph S. Nye, Jr.  |   Foreign Affairs

Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch

16/06/2025

https://nghiencuuquocte.org/2025/06/16/hoi-ket-cho-the-ky-dai-cua-nuoc-my/

 

Trump và nguồn gốc của quyền lực Mỹ.

 

Tổng thống Donald Trump đã cố gắng thực hiện những nỗ lực song song: vừa muốn đặt nước Mỹ lên trên thế giới, vừa muốn tách rời đất nước khỏi những ràng buộc quốc tế. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình bằng cách phô trương quyền lực cứng của Mỹ, đe dọa chiếm quyền kiểm soát Greenland của Đan Mạch, và ám chỉ rằng ông sẽ lấy lại Kênh đào Panama. Ông cũng thành công trong việc sử dụng lời đe dọa áp đặt thuế quan trừng phạt để gây sức ép lên Canada, Colombia, và Mexico về vấn đề nhập cư. Ngoài ra, ông còn rút khỏi Hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Và vào tháng 4, ông khiến thị trường toàn cầu hỗn loạn khi công bố các mức thuế quan sâu rộng đối với nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Tuy nhiên, không lâu sau đó, ông lại thay đổi chiến thuật, rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, dù vẫn tiếp tục thúc đẩy cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận trung tâm trong cuộc tấn công hiện tại của ông chống lại đối thủ chính của Washington.

 

Khi làm tất cả những điều này, Trump đã hành động từ vị thế của quyền lực. Những nỗ lực của ông nhằm sử dụng thuế quan để gây sức ép lên các đối tác thương mại của Mỹ cho thấy niềm tin của ông, rằng các mô hình phụ thuộc lẫn nhau đương đại đang tăng cường quyền lực của nước Mỹ. Các quốc gia khác phụ thuộc vào sức mua của thị trường Mỹ khổng lồ và vào sự chắc chắn về quyền lực của quân đội Mỹ. Những lợi thế này mang lại cho Washington khả năng ép buộc các đối tác của mình. Quan điểm của ông phù hợp với lập luận mà chúng tôi đã đưa ra gần 50 năm trước: rằng sự phụ thuộc lẫn nhau bất đối xứng mang lại lợi thế cho bên ít phụ thuộc hơn trong một mối quan hệ. Trump than thở về thâm hụt thương mại đáng kể của Mỹ với Trung Quốc, nhưng ông dường như cũng hiểu rằng sự mất cân bằng này mang lại cho Washington đòn bẩy rất lớn đối với Bắc Kinh.

 

Trump đã xác định đúng những phương thức giúp nước Mỹ trở nên mạnh hơn, nhưng ông vẫn đang sử dụng quyền lực đó theo những cách phản tác dụng cơ bản. Bằng cách tấn công sự phụ thuộc lẫn nhau, ông đã làm suy yếu chính nền tảng của quyền lực Mỹ. Quyền lực gắn liền với thương mại là quyền lực cứng, dựa trên năng lực vật chất. Nhưng trong 80 năm qua, Mỹ cũng đã tích lũy quyền lực mềm, dựa trên sức hấp dẫn, chứ không phải sự ép buộc hoặc áp đặt chi phí. Một chính sách khôn ngoan sẽ giúp Mỹ duy trì, thay vì phá vỡ, các mô hình phụ thuộc lẫn nhau giúp củng cố quyền lực của họ, cả quyền lực cứng có được từ các quan hệ thương mại lẫn quyền lực mềm đến từ sức hấp dẫn. Nếu chính sách đối ngoại hiện tại của Trump được duy trì, nó sẽ làm suy yếu Mỹ và đẩy nhanh quá trình xói mòn trật tự quốc tế đã hoạt động hiệu quả đối với rất nhiều quốc gia kể từ Thế chiến II – mà trên hết là Mỹ.

 

Trật tự quốc tế hiện tại dựa trên sự phân bổ quyền lực ổn định giữa các quốc gia, trên các chuẩn mực để quản lý và chính danh hóa hành vi của các quốc gia và các tác nhân khác, cũng như các thể chế giúp củng cố trật tự. Nhưng chính quyền Trump đã làm lung lay tất cả các trụ cột này. Thế giới có thể đang bước vào một giai đoạn hỗn loạn, một giai đoạn chỉ có thể ổn định sau khi Nhà Trắng thay đổi hướng đi, hoặc khi một sự sắp đặt mới xuất hiện ở Washington. Nhưng sự suy giảm đang diễn ra có thể không phải là một sự suy giảm tạm thời, mà là một cú lao thẳng xuống vùng nước đục ngầu. Trong nỗ lực thất thường và sai lầm của mình nhằm khiến nước Mỹ trở nên hùng mạnh hơn, Trump có thể đưa giai đoạn thống trị của Mỹ – điều mà nhà xuất bản người Mỹ Henry Luce từng gọi là “thế kỷ Mỹ” – đi đến hồi kết không mấy vui vẻ.

 

 

LỢI THẾ THÂM HỤT

 

Khi viết Quyền lực và Sự Phụ thuộc Lẫn nhau (Power and Interdependence) vào năm 1977, chúng tôi đã cố gắng mở rộng những hiểu biết thông thường về quyền lực. Các chuyên gia chính sách đối ngoại thường nhìn nhận quyền lực thông qua lăng kính của cuộc cạnh tranh quân sự thời Chiến tranh Lạnh. Ngược lại, nghiên cứu của chúng tôi khám phá cách thương mại ảnh hưởng đến quyền lực, và chúng tôi lập luận rằng sự bất đối xứng trong quan hệ kinh tế phụ thuộc lẫn nhau trao quyền cho bên ít phụ thuộc hơn. Nghịch lý của quyền lực thương mại là: thành công trong quan hệ thương mại – như được thể hiện qua việc một quốc gia có thặng dư thương mại với quốc gia khác – lại chính là nguồn gốc của sự dễ bị tổn thương. Ngược lại, và có lẽ là phản trực giác, thâm hụt thương mại có thể củng cố vị thế mặc cả của một quốc gia. Suy cho cùng, quốc gia thâm hụt có thể áp đặt thuế quan hoặc các rào cản thương mại khác đối với quốc gia thặng dư. Quốc gia thặng dư bị nhắm mục tiêu đó sẽ gặp khó khăn trong việc trả đũa vì họ tương đối thiếu hàng nhập khẩu để trừng phạt.

 

Đe dọa cấm hoặc hạn chế nhập khẩu có thể giúp người ta thành công gây sức ép lên các đối tác thương mại. Xét về sự phụ thuộc lẫn nhau và quyền lực bất đối xứng, Mỹ đang ở vị thế mặc cả thuận lợi trước tất cả bảy đối tác thương mại quan trọng nhất của mình. Hoạt động thương mại của Mỹ cực kỳ bất đối xứng với Trung Quốc, Mexico, và Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, tất cả đều có tỷ lệ xuất-nhập khẩu lớn hơn hai lần so với Mỹ. Đối với Nhật Bản (khoảng 1,8 lần so với 1), Hàn Quốc (1,4 lần so với 1), và Liên minh châu Âu (1,6 lần so với 1) – các tỷ lệ này cũng là bất đối xứng. Canada thì có tỷ lệ cân bằng hơn, khoảng 1,2 lần so với 1.

 

Tất nhiên, các tỷ lệ này không thể hiện trọn vẹn mọi khía cạnh của quan hệ kinh tế giữa các quốc gia. Các yếu tố đối trọng – chẳng hạn như các nhóm lợi ích trong nước có quan hệ xuyên quốc gia với các tác nhân nước ngoài ở các thị trường khác, hoặc các quan hệ cá nhân và nhóm xuyên biên giới – có thể làm phức tạp vấn đề, và đôi khi dẫn đến các trường hợp ngoại lệ hoặc hạn chế tác động của sự phụ thuộc lẫn nhau bất đối xứng. Trong Quyền lực và Sự Phụ thuộc Lẫn nhau, chúng tôi mô tả các kênh kết nối đa dạng này là “sự phụ thuộc lẫn nhau phức tạp,” và trong một phân tích chi tiết về quan hệ Mỹ-Canada từ năm 1920 đến năm 1970, chúng tôi đã chỉ ra rằng chúng thường củng cố quyền lực của Canada. Ví dụ, hiệp ước xe hơi Mỹ-Canada hồi thập niên 1960 là kết quả của một quá trình đàm phán bắt đầu bằng việc Canada đơn phương đưa ra trợ cấp xuất khẩu cho phụ tùng xe hơi. Trong mọi phân tích về sự phụ thuộc lẫn nhau bất đối xứng và quyền lực, cần phải xem xét cẩn thận các yếu tố đối trọng có thể làm giảm lợi thế mà quốc gia thâm hụt thông thường sẽ tích lũy được.

 

https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/_webp_large_1x/public/images/2025/05/30/2025-05-23T210829Z_603365444_RC2XNEARJDN7_RTRMADP_3_USA-TRUMP.JPG.webp?itok=-p892KI7

Trump tại Sân bay Thành phố Morristown ở New Jersey, tháng 05/2025. © Nathan Howard/Reuters

 

Theo lập luận này, Trung Quốc dường như là kẻ yếu nhất trong tất cả các lĩnh vực thương mại, với tỷ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu là ba trên một. Họ cũng không thể kêu gọi các quan hệ liên minh hoặc sử dụng các hình thức quyền lực mềm khác. Nhưng họ có thể trả đũa bằng cách khai thác các yếu tố đối trọng, trừng phạt các tập đoàn quan trọng của Mỹ hoạt động tại Trung Quốc, như Apple hoặc Boeing, hoặc các tác nhân chính trị trong nước quan trọng của Mỹ, như nông dân trồng đậu nành hoặc các hãng phim Hollywood. Trung Quốc cũng có thể sử dụng quyền lực cứng như cắt nguồn cung khoáng sản quý hiếm. Trong lúc hai bên dần khám phá các điểm yếu chung của họ, trọng tâm của thương chiến sẽ chuyển sang phản ánh quá trình học hỏi này.

 

Mexico có ít nguồn ảnh hưởng đối trọng hơn và vẫn rất dễ bị tổn thương trước ý muốn của Mỹ. Châu Âu có thể sử dụng một số ảnh hưởng đối trọng trong lĩnh vực thương mại bởi vì họ có thương mại cân bằng hơn với Mỹ so với Trung Quốc và Mexico, nhưng họ vẫn phụ thuộc vào NATO, nên lời đe dọa không ủng hộ liên minh của Trump có thể là một công cụ mặc cả hiệu quả. Canada có thương mại cân bằng hơn với Mỹ và mạng lưới quan hệ xuyên quốc gia với các nhóm lợi ích của Mỹ khiến họ ít bị tổn thương hơn, nhưng có lẽ họ đang ở thế thua trong thương mại, vì nền kinh tế của họ phụ thuộc nhiều hơn vào nền kinh tế Mỹ so với chiều ngược lại. Ở châu Á, sự bất đối xứng trong quan hệ thương mại của Mỹ với Nhật Bản, Hàn Quốc, và Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á phần nào được bù đắp bằng chính sách cạnh tranh của Mỹ với Trung Quốc. Chừng nào sự cạnh tranh này còn tiếp diễn, thì Mỹ vẫn cần các đồng minh và đối tác Đông Á và Đông Nam Á, nên họ không thể tận dụng tối đa đòn bẩy có được từ thương mại. Do đó, ảnh hưởng tương đối của chính sách thương mại của Mỹ sẽ thay đổi tùy thuộc vào bối cảnh địa chính trị và các mô hình phụ thuộc lẫn nhau bất đối xứng.

 

 

QUYỀN LỰC THỰC SỰ

 

Nhưng chính quyền Trump đã bỏ lỡ một khía cạnh quan trọng của quyền lực. Quyền lực là khả năng khiến người khác làm những gì bạn muốn. Mục tiêu này có thể đạt được bằng cách ép buộc, trả tiền, hoặc hấp dẫn họ. Hai cách đầu tiên là quyền lực cứng, còn cách thứ ba là quyền lực mềm. Trong ngắn hạn, quyền lực cứng thường lấn át quyền lực mềm, nhưng về lâu dài, quyền lực mềm thường chiếm ưu thế. Người ta kể lại rằng Joseph Stalin đã từng chế giễu “Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn cơ?” Nhưng Liên Xô đã biến mất từ lâu, trong khi chế độ Giáo Hoàng vẫn tồn tại.

 

Tổng thống Mỹ có vẻ cam kết quá mức với kịch bản ép buộc và việc sử dụng quyền lực cứng của Mỹ, nhưng ông dường như không thể hiểu được quyền lực mềm hoặc vai trò của nó trong chính sách đối ngoại. Việc ép buộc các đồng minh dân chủ như Canada hoặc Đan Mạch sẽ làm suy yếu lòng tin vào các liên minh của Mỹ; đe dọa Panama làm dấy lên nỗi sợ hãi về chủ nghĩa đế quốc trên khắp Mỹ Latinh; làm tê liệt Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ USAID khiến danh tiếng của Mỹ về lòng nhân từ bị sụp đổ, và bịt miệng Đài Tiếng nói Mỹ VOA cũng ngăn chặn thông điệp của đất nước.

 

Những người hoài nghi sẽ nói, Vậy thì đã sao? Chính trị quốc tế là chính trị cứng, nào phải chính trị mềm. Cách tiếp cận ép buộc và giao dịch của Trump đã tạo ra những nhượng bộ, đi kèm lời hứa sẽ còn nhiều hơn nữa. Như Machiavelli đã từng viết về quyền lực, bậc quân vương được kính sợ thì hơn là được yêu mến. Nhưng tốt hơn cả là vừa được kính sợ lại vừa được yêu mến. Quyền lực đến từ ba phương thức, và bằng cách phớt lờ sức hấp dẫn, Trump đang bỏ qua một nguồn quyền lực quan trọng của nước Mỹ. Về lâu dài, đây chính là một chiến lược thua lỗ.

 

Quyền lực mềm cũng quan trọng ngay cả trong ngắn hạn. Nếu một quốc gia trở nên hấp dẫn, quốc gia đó sẽ không cần phải dựa nhiều vào các ưu đãi và hình phạt để định hình hành vi của quốc gia khác. Nếu các đồng minh cho rằng quốc gia đó là nhân từ và đáng tin cậy, họ sẽ dễ bị thuyết phục hơn và sẵn lòng đi theo sự dẫn dắt của quốc gia đó, dù phải thừa nhận rằng họ có thể tìm cách để hưởng lợi từ lập trường nhân từ của quốc gia mạnh hơn. Khi bị bắt nạt, họ có thể chịu khuất phục, nhưng nếu họ cho rằng đối tác thương mại của mình chỉ là kẻ bắt nạt không đáng tin cậy, họ có thể tìm cách trì hoãn và giảm sự phụ thuộc lẫn nhau về dài hạn khi có thể. Châu Âu thời Chiến tranh Lạnh là một ví dụ điển hình của động lực này. Năm 1986, nhà phân tích người Na Uy Geir Lundestad đã mô tả thế giới bị chia làm đôi, thành một đế chế Liên Xô và một đế chế Mỹ. Trong khi Liên Xô sử dụng vũ lực để xây dựng các nước vệ tinh (satrap) châu Âu của mình, thì Mỹ lại là “một đế chế mời gọi.” Liên Xô đã phải gửi quân đến Budapest năm 1956 và Prague năm 1968 để buộc chính phủ hai nước phải nghe lời Moscow. Ngược lại, NATO vẫn đứng vững suốt Chiến tranh Lạnh.

 

Trong khi đó, ở châu Á, Trung Quốc dần tăng cường đầu tư quân sự và kinh tế, nhưng cũng đã vun đắp sức hấp dẫn của mình. Năm 2007, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào phát biểu tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 17 rằng Trung Quốc cần củng cố quyền lực mềm, và chính phủ Trung Quốc đã chi hàng chục tỷ đô la cho mục đích đó. Phải thừa nhận rằng họ chỉ đạt được những kết quả trái chiều, do hai trở ngại chính: họ đã khơi dậy các tranh chấp lãnh thổ gay gắt với một số nước láng giềng và ĐCSTQ đã duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với tất cả các tổ chức và ý kiến trong xã hội dân sự. Trung Quốc cũng gây phẫn nộ khi họ phớt lờ các đường biên giới được quốc tế công nhận, và còn để lại ấn tượng không tốt với người dân ở nhiều quốc gia sau khi bỏ tù các luật sư nhân quyền và buộc những người không chịu tuân theo khuôn mẫu, chẳng hạn như nghệ sĩ tài năng Ngải Vị Vị (Ai Weiwei), phải sống lưu vong.

 

Chí ít là trước khi nhiệm kỳ thứ hai của Trump bắt đầu, Trung Quốc đã bị Mỹ bỏ lại xa trên tòa án dư luận toàn cầu. Theo khảo sát của Pew tại 24 quốc gia vào năm 2023, phần lớn người trả lời ở hầu hết các quốc gia này thấy Mỹ hấp dẫn hơn Trung Quốc, và châu Phi là châu lục duy nhất có kết quả còn gần bằng nhau. Gần đây hơn, vào tháng 05/2024, Gallup phát hiện ra rằng trong 133 quốc gia được khảo sát, Mỹ có lợi thế ở 81 quốc gia và Trung Quốc ở 52 quốc gia. Tuy nhiên, nếu Trump tiếp tục làm suy yếu quyền lực mềm của Mỹ, những con số này có thể thay đổi đáng kể.

 

Quyền lực mềm của Mỹ cũng đã trải qua thăng trầm trong những năm qua. Mỹ không được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Iraq. Nhưng quyền lực mềm bắt nguồn từ xã hội và văn hóa của một quốc gia, chứ không chỉ từ hành động của chính phủ nước đó. Ngay cả trong Chiến tranh Việt Nam, khi các đám đông diễu hành qua các đường phố trên khắp thế giới để phản đối các chính sách của Mỹ, họ không hát bài “Quốc tế ca” của cộng sản mà hát bài quốc ca về quyền công dân của Mỹ “Chúng ta sẽ vượt qua” (We Shall Overcome). Một xã hội dân sự cởi mở cho phép biểu tình phản đối và chào đón những người bất đồng chính kiến có thể là một lợi thế. Nhưng quyền lực mềm bắt nguồn từ văn hóa Mỹ sẽ không thể tồn tại trước những hành động thái quá của chính phủ Mỹ trong bốn năm tới, nếu nền dân chủ Mỹ tiếp tục bị xói mòn và nước này tiếp tục hành động như một kẻ bắt nạt ở nước ngoài.

 

Về phần mình, Trung Quốc đang nỗ lực lấp đầy mọi khoảng trống mà Trump tạo ra. Họ tự xem mình là người lãnh đạo của cái gọi là phương Nam toàn cầu. Họ muốn thay thế trật tự liên minh và thể chế quốc tế của Mỹ. Chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng Vành đai và Con đường của họ được thiết kế không chỉ để thu hút các quốc gia khác, mà còn để cung cấp quyền lực kinh tế cứng. Đối với nhiều quốc gia, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất, chứ không phải Mỹ. Nếu Trump nghĩ rằng ông có thể cạnh tranh với Trung Quốc trong lúc làm suy yếu lòng tin giữa các đồng minh của Mỹ, đồng thời khẳng định tham vọng đế quốc, phá hủy Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ, thách thức luật pháp trong nước, và rút khỏi các cơ quan của Liên Hiệp Quốc, thì ông có thể sẽ thất vọng.

 

 

BÓNG MA CỦA CHỦ NGHĨA TOÀN CẦU

 

Thứ ám ảnh sự trỗi dậy của các chính trị gia theo chủ nghĩa dân túy phương Tây như Trump chính là bóng ma của toàn cầu hóa, mà họ mô tả là thế lực của quỷ dữ. Trên thực tế, thuật ngữ này chỉ đơn giản ám chỉ sự gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau ở khoảng cách liên lục địa. Khi Trump đe dọa áp thuế đối với Trung Quốc, ông đang cố gắng giảm khía cạnh kinh tế trong sự phụ thuộc lẫn nhau toàn cầu của Mỹ, mà ông cho là nguyên nhân khiến đất nước bị mất các ngành công nghiệp và việc làm. Toàn cầu hóa chắc chắn có thể có những tác động tiêu cực và tích cực. Nhưng các biện pháp của Trump đang đi sai hướng, vì chúng tấn công vào những hình thức toàn cầu hóa phần lớn là tốt cho Mỹ và thế giới, trong khi không chống lại được những hình thức xấu. Nhìn chung, toàn cầu hóa đã tăng cường quyền lực của Mỹ và cuộc tấn công của Trump vào nó chỉ làm nước Mỹ suy yếu mà thôi.

 

Vào đầu thế kỷ 19, nhà kinh tế học và chính khách người Anh David Ricardo đã xác lập nên một thực tế được chấp nhận rộng rãi, rằng thương mại toàn cầu có thể tạo ra giá trị thông qua lợi thế so sánh. Bằng cách mở cửa cho thương mại, các quốc gia có thể chuyển sang chuyên môn hóa vào những gì họ làm tốt nhất. Thương mại tạo ra cái mà nhà kinh tế học người Đức Joseph Schumpeter gọi là “sự phá hủy mang tính sáng tạo”: việc làm bị mất đi trong quá trình này và các nền kinh tế quốc gia phải chịu những cú sốc từ nước ngoài, đôi khi là kết quả của chính sách cố ý của các chính phủ nước ngoài. Nhưng sự gián đoạn đó có thể giúp các nền kinh tế trở nên năng suất và hiệu quả hơn. Nhìn chung, trong 75 năm qua, sự phá hủy sáng tạo đã làm quyền lực của Mỹ tăng lên gấp bội. Trên cương vị nền kinh tế lớn nhất, Mỹ đã được hưởng lợi nhiều nhất từ sự đổi mới tạo ra tăng trưởng và các hiệu ứng lan tỏa mà sự tăng trưởng đó đã tạo ra trên toàn thế giới.

 

Nhưng đồng thời, tăng trưởng cũng có thể gây đau đớn. Các nghiên cứu chỉ ra rằng Mỹ đã mất (và đã có được) hàng triệu việc làm trong thế kỷ 21, buộc người lao động phải gánh chịu chi phí điều chỉnh của quá trình này, và họ thường không nhận được sự đền bù thỏa đáng từ chính phủ. Sự thay đổi công nghệ cũng đã loại bỏ hàng triệu việc làm khi máy móc thay thế con người, và rất khó để làm rõ tác động đan xen của tự động hóa và thương mại nước ngoài. Những căng thẳng thông thường của sự phụ thuộc lẫn nhau đã trở nên tồi tệ hơn nhiều do cơn lũ hàng xuất khẩu của Trung Quốc, vốn không hề có dấu hiệu ngừng lại.

 

https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/_webp_large_1x/public/images/2025/05/30/2025-05-12T163757Z_195613865_RC2FGEA826Y3_RTRMADP_3_USA-TRUMP-TARIFFS.JPG.webp?itok=t16oUBN8

Các container vận chuyển tại Cảng Oakland, California, tháng 05/2025. © Carlos Barria/Reuters

 

Dù toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy năng suất của nền kinh tế thế giới, nhưng những thay đổi này có thể không được nhiều cá nhân và gia đình chào đón. Người dân ở nhiều cộng đồng không muốn chuyển đến những nơi mà họ có thể dễ dàng tìm được việc làm hơn, trong khi những người khác sẵn sàng di chuyển nửa vòng trái đất để tìm kiếm nhiều cơ hội hơn. Vài thập kỷ toàn cầu hóa gần đây đã được đặc trưng bởi sự di chuyển ồ ạt của con người qua biên giới quốc gia, một loại phụ thuộc lẫn nhau quan trọng khác.

 

Di cư làm phong phú thêm văn hóa và mang lại lợi ích kinh tế lớn cho các quốc gia tiếp nhận người di cư bằng cách đưa những người có kỹ năng đến những nơi mà họ có thể sử dụng những kỹ năng đó một cách hiệu quả hơn. Các quốc gia mà người di cư đi khỏi cũng có thể hưởng lợi từ việc giảm áp lực dân số và từ khoản kiều hối gửi về. Trong mọi trường hợp, di cư có xu hướng tạo ra nhiều cuộc di cư hơn nữa. Nếu không có những rào cản lớn do các quốc gia dựng lên, thì di cư trong thế giới đương đại thường là một quá trình tự duy trì.

 

Trump đổ lỗi cho người nhập cư vì đã gây ra những thay đổi mang tính phá hoại. Dù vẫn có một số hình thức nhập cư rõ ràng là tốt cho nền kinh tế trong dài hạn, nhưng những người chỉ trích có thể dễ dàng mô tả chúng là có hại trong ngắn hạn, và chúng có thể khuấy động sự phản đối chính trị mạnh mẽ trong một số nhóm người. Những đợt tăng đột biến trong nhập cư gây ra những phản ứng chính trị mạnh mẽ, trong đó người nhập cư thường bị đổ lỗi cho nhiều thay đổi kinh tế và xã hội khác nhau, ngay cả khi rõ ràng họ không phải là nguyên nhân. Nhập cư đã trở thành vấn đề chính trị dân túy chủ đạo được sử dụng để chống lại các chính phủ đương nhiệm ở hầu hết các nền dân chủ trong những năm gần đây. Nó đã thúc đẩy chiến thắng bầu cử của Trump vào năm 2016 – và một lần nữa vào năm 2024.

 

Đối với các nhà lãnh đạo dân túy, việc đổ lỗi rằng người nước ngoài gây ra biến động kinh tế sẽ dễ hơn là chấp nhận vai trò quyết định của thay đổi công nghệ và vốn. Toàn cầu hóa đã đặt ra những thách thức cho các chính phủ đương nhiệm trong những cuộc bầu cử gần đây ở nhiều quốc gia. Khi đối mặt với những căng thẳng này, các chính trị gia sẽ bị cám dỗ tìm cách đảo ngược toàn cầu hóa bằng cách áp đặt thuế quan và các rào cản khác đối với trao đổi quốc tế, như Trump đang làm.

 

Toàn cầu hóa kinh tế đã từng bị đảo ngược trong quá khứ. Thế kỷ 19 chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng cả về thương mại và di cư, nhưng mọi thứ đã chậm lại đáng kể khi Thế chiến I bùng nổ vào năm 1914. Thương mại tính theo phần trăm hoạt động kinh tế toàn cầu đã không phục hồi về mức năm 1914 mãi cho đến gần năm 1970. Điều này có thể xảy ra một lần nữa, dù sẽ cần một nỗ lực lớn hơn. Thương mại thế giới đã tăng trưởng cực kỳ nhanh từ năm 1950 đến 2008, rồi chậm hơn kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009. Nhìn chung, thương mại đã tăng 4400% từ năm 1950 đến 2023. Tuy nhiên, thương mại toàn cầu có thể một lần nữa rơi vào suy thoái. Nếu các biện pháp thương mại của Mỹ chống lại Trung Quốc dẫn đến một cuộc thương chiến quyết liệt hơn, thì nó có khả năng sẽ gây ra thiệt hại khổng lồ. Chiến tranh thương mại nhìn chung có thể dễ dàng biến thành xung đột dai dẳng và leo thang, với khả năng gây ra những thay đổi thảm khốc.

 

Mặt khác, cái giá của việc hủy bỏ hơn nửa nghìn tỷ đô la thương mại có thể sẽ hạn chế sự sẵn lòng của các quốc gia trong việc tham gia vào thương chiến và có thể tạo ra một số động lực để thỏa hiệp. Và dù các quốc gia khác có thể hành động có đi có lại với Mỹ, nhưng họ không nhất thiết phải hạn chế thương mại với nhau. Các yếu tố địa chính trị cũng có thể đẩy nhanh quá trình làm suy yếu dòng chảy thương mại. Ví dụ, một cuộc chiến nhắm vào Đài Loan có thể khiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc dừng lại đột ngột.

 

Một số nhà phân tích cho rằng làn sóng phản ứng dân túy dân tộc chủ nghĩa ở hầu hết các nền dân chủ là do sự lan rộng và tốc độ của toàn cầu hóa. Thương mại và di cư đã tăng tốc song song sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, trong lúc các thay đổi chính trị và công nghệ liên lạc được cải thiện làm giảm chi phí của việc vượt qua biên giới và các khoảng cách xa. Giờ đây, thuế quan và kiểm soát biên giới có thể làm những luồng di chuyển đó chậm lại. Đó sẽ là tin xấu cho quyền lực của Mỹ, vốn đã được tăng cường nhờ năng lượng và năng suất của những người nhập cư trong suốt lịch sử của mình, bao gồm cả trong vài thập kỷ vừa qua.

 

 

NHỮNG VẤN ĐỀ KHÔNG BIÊN GIỚI

 

Không có cuộc khủng hoảng nào làm nổi bật tính không thể tránh khỏi của sự phụ thuộc lẫn nhau tốt hơn biến đổi khí hậu. Các nhà khoa học dự đoán rằng biến đổi khí hậu sẽ gây ra những thiệt hại khổng lồ khi các tảng băng toàn cầu tan chảy, các thành phố ven biển bị ngập lụt, các đợt sóng nhiệt gia tăng, và các kiểu thời tiết thay đổi hỗn loạn dần xuất hiện vào cuối thế kỷ này. Ngay cả trong tương lai gần, cường độ của các cơn bão và cháy rừng cũng trở nên trầm trọng hơn do biến đổi khí hậu. Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu đã và đang là tiếng nói quan trọng nêu rõ những nguy cơ của biến đổi khí hậu, chia sẻ thông tin khoa học, và khuyến khích hợp tác xuyên quốc gia. Tuy nhiên, Trump đã hủy bỏ mọi hỗ trợ cho các hành động quốc tế và quốc gia để chống lại biến đổi khí hậu. Trớ trêu thay, chính quyền của ông đang tìm cách hạn chế các loại toàn cầu hóa có lợi, và còn cố tình làm suy yếu khả năng của Washington trong việc giải quyết các loại toàn cầu hóa sinh thái, như biến đổi khí hậu và đại dịch, vốn có chi phí thiệt hại rất lớn. Đại dịch COVID-19 ở Mỹ đã giết chết hơn 1,2 triệu người; tạp chí Lancet ước tính con số tử vong trên toàn thế giới là khoảng 18 triệu người. COVID-19 đã lây lan nhanh chóng trên toàn thế giới và chắc chắn là một hiện tượng toàn cầu, được thúc đẩy bởi việc đi lại, vốn là một phần không thể thiếu của toàn cầu hóa.

 

Trong những lĩnh vực khác, sự phụ thuộc lẫn nhau vẫn là nguồn quyền lực chính của Mỹ. Ví dụ, các mạng lưới tương tác chuyên môn giữa các nhà khoa học đã có những tác động tích cực to lớn trong việc đẩy nhanh các khám phá và đổi mới. Trước khi Trump lên nắm quyền, việc mở rộng hoạt động và mạng lưới khoa học hầu như không gây ra phản ứng chính trị tiêu cực nào. Bất kỳ danh mục nào liệt kê những ưu và nhược điểm của toàn cầu hóa đối với phúc lợi con người đều phải bao gồm hợp tác khoa học ở phía ưu điểm. Ví dụ, trong những ngày đầu của đại dịch COVID-19 ở Vũ Hán vào năm 2020, các nhà khoa học Trung Quốc đã chia sẻ giải mã di truyền của loại coronavirus mới với các đối tác quốc tế trước khi họ bị Bắc Kinh ngăn cản.

 

Đó là lý do tại sao một trong những khía cạnh kỳ lạ nhất trong nhiệm kỳ mới của Trump là việc chính quyền của ông mạnh tay cắt giảm hỗ trợ liên bang cho nghiên cứu khoa học, bao gồm cả trong các lĩnh vực mang lại lợi nhuận đầu tư lớn, những lĩnh vực đã gánh vác tốc độ đổi mới trong thế giới hiện đại và đã nâng cao uy tín và quyền lực của Mỹ. Các trường đại học nghiên cứu của Mỹ đang dẫn đầu thế giới, nhưng chính quyền lại tìm cách kìm hãm họ bằng cách hủy bỏ tài trợ, hạn chế tính độc lập của họ, và gây khó khăn cho việc thu hút những sinh viên ưu tú nhất từ khắp nơi trên thế giới. Cuộc tấn công này quả thực khó hiểu, trừ phi chúng ta xem nó là một đòn công kích trong một cuộc chiến văn hóa chống lại “tầng lớp tinh hoa” giả định, những người không chia sẻ hệ tư tưởng của chủ nghĩa dân túy cánh hữu. Về cơ bản, nó giống như việc tự gây cho mình một vết thương lớn.

 

https://cdn-live.foreignaffairs.com/sites/default/files/styles/_webp_large_1x/public/images/2025/05/30/2025-05-16T170421Z_1708388357_RC20DEAJMIX1_RTRMADP_3_USA-AID-WAREHOUSE.JPG.webp?itok=62OuZzOB

Vật tư y tế của USAID tại bang Bauchi, Nigeria, tháng 05/2025. © Sodiq Adelakun/Reuters

 

Chính quyền Trump cũng đang hủy bỏ một công cụ quan trọng khác của quyền lực mềm: sự ủng hộ của Mỹ đối với các giá trị dân chủ tự do. Ý tưởng về nhân quyền như một giá trị đã dần lan rộng khắp thế giới, đặc biệt là trong nửa thế kỷ qua. Sau sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991, các thể chế và chuẩn mực dân chủ đã lan rộng đến phần lớn Đông Âu (bao gồm cả Nga, trong một thời gian ngắn), cũng như đến các khu vực khác trên thế giới, đáng chú ý là Mỹ Latinh, và có được một chỗ đứng ở châu Phi. Tỷ lệ các quốc gia trên thế giới là nền dân chủ tự do hoặc dân chủ bầu cử đạt hơn 50% ở thời điểm đỉnh cao vào khoảng năm 2000, và đã giảm một chút kể từ đó, nhưng vẫn duy trì ở mức gần 50%. Dù “làn sóng dân chủ” sau Chiến tranh Lạnh đã lắng xuống, nhưng nó vẫn để lại dấu ấn sâu đậm.

 

Sự hấp dẫn rộng rãi của các chuẩn mực dân chủ và nhân quyền chắc chắn đã góp phần tạo nên quyền lực mềm của Mỹ. Các chính phủ chuyên chế phản đối những gì họ xem là sự can thiệp của các nhóm ủng hộ nhân quyền – vốn thường có trụ sở tại Mỹ và được các nguồn lực phi chính phủ và chính phủ tại Mỹ hậu thuẫn – vào quyền tự chủ chủ quyền của họ. Trong thời gian qua, các chế độ chuyên chế đã chiến đấu ở thế phòng thủ. Không có gì ngạc nhiên khi một số chính phủ chuyên chế từng khó chịu trước sự chỉ trích hoặc trừng phạt của Mỹ đã hoan nghênh việc chính quyền Trump từ bỏ sự ủng hộ đối với nhân quyền ở nước ngoài, chẳng hạn bằng cách đóng cửa Văn phòng Công lý Hình sự Toàn cầu của Bộ Ngoại giao, Văn phòng Các vấn đề Phụ nữ Toàn cầu, và Cục Chiến dịch Xung đột và Ổn định. Chính sách của chính quyền Trump sẽ cản trở sự lan rộng hơn nữa của nền dân chủ và làm suy yếu quyền lực mềm của Mỹ.

 

 

ĐẶT CƯỢC VÀO SỰ YẾU KÉM

 

Không thể đảo ngược sự phụ thuộc lẫn nhau toàn cầu. Nó sẽ tiếp tục chừng nào con người vẫn còn di chuyển và phát minh ra các công nghệ liên lạc và vận tải mới. Suy cho cùng, quá trình toàn cầu hóa đã diễn ra xuyên suốt nhiều thế kỷ, với nguồn gốc từ thời Con đường Tơ Lụa và xa hơn nữa. Vào thế kỷ 15, những đổi mới trong vận tải đường biển đã thúc đẩy thời đại khám phá, tiếp theo là quá trình thuộc địa hóa của châu Âu đã định hình các biên giới quốc gia ngày nay. Sang thế kỷ 19 và 20, tàu hơi nước và điện báo đã đẩy nhanh quá trình này khi Cách mạng Công nghiệp chuyển đổi các nền kinh tế nông nghiệp. Giờ đây, cuộc Cách mạng Thông tin đang chuyển đổi các nền kinh tế định hướng dịch vụ. Hàng tỷ người đang mang theo một chiếc máy tính trong túi, chứa đựng lượng thông tin có thể lấp đầy một tòa nhà chọc trời cách đây 50 năm.

 

Chiến tranh thế giới đã tạm thời đảo ngược toàn cầu hóa kinh tế và làm gián đoạn di cư, nhưng nếu không có chiến tranh toàn cầu, và chừng nào công nghệ còn tiếp tục tiến bộ nhanh chóng, thì toàn cầu hóa kinh tế cũng sẽ tiếp tục. Toàn cầu hóa sinh thái và hoạt động khoa học toàn cầu cũng sẽ được duy trì, và các chuẩn mực và thông tin sẽ tiếp tục di chuyển xuyên biên giới. Tác động của một số hình thức toàn cầu hóa có thể là tiêu cực: biến đổi khí hậu là ví dụ nổi bật về một cuộc khủng hoảng không có biên giới. Để định hướng và định hình lại toàn cầu hóa vì lợi ích chung, các quốc gia sẽ phải phối hợp với nhau. Và để sự phối hợp như vậy có hiệu quả, các nhà lãnh đạo sẽ phải xây dựng và duy trì các mạng lưới của các kết nối, chuẩn mực và thể chế. Đến lượt mình, các mạng lưới đó sẽ mang lại lợi ích cho điểm giao thoa của chúng, Mỹ – vẫn là quốc gia hùng mạnh nhất về kinh tế, quân sự, công nghệ, và văn hóa trên thế giới – bằng cách trao cho Washington quyền lực mềm. Thật không may, sự tập trung thiển cận của chính quyền Trump thứ hai – vốn bị ám ảnh bởi quyền lực cứng mang tính ép buộc, liên quan đến sự bất đối xứng về thương mại và các lệnh trừng phạt – có khả năng làm xói mòn hơn là củng cố trật tự quốc tế do Mỹ dẫn đầu. Trump đã tập trung quá nhiều vào việc “đi nhờ” của các đồng minh mà quên mất thực tế rằng Mỹ đã được “cầm lái” – và do đó cũng có quyền lựa chọn điểm đến và lộ trình. Trump dường như không hiểu được rằng quyền lực của Mỹ nằm ở sự phụ thuộc lẫn nhau. Thay vì làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại, ông đang đặt cược vào một canh bạc bi thảm của sự yếu kém.

 

-------------------------------

Robert O. Keohane là Giáo sư hưu trí về Quan hệ quốc tế tại Đại học Princeton và là cộng sự tại Trung tâm Quan hệ quốc tế Harvard.

 

Joseph S. Nye, Jr. là Giáo sư danh dự của Trường Chính phủ John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard. Ông từng là Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Phụ trách các Vấn đề An ninh Quốc tế và Giám đốc Hội đồng Tình báo Quốc gia dưới thời chính quyền Clinton. Ông là tác giả của “A Life in the American Century,” cùng nhiều cuốn sách khác.

 

Hai người là tác giả của “Power and Interdependence: World Politics in Transition.” Bài luận này dựa trên một số bài viết trước đây của Nye, người đã qua đời vào tháng 5, trong lúc bài luận này đang được hoàn thiện. Chúng tôi xin bày tỏ lòng thương tiếc sự ra đi của ông và biết ơn gia đình ông vì đã cho phép chúng tôi được sử dụng nội dung bài viết.

 

----------------------------

Nguồn: Robert O. Keohane và Joseph S. Nye, Jr., “The End of the Long American Century”, Foreign Affairs, 02/06/2025

 

 

 

 

 

======================

 

 

 

 

Các cuộc đàm phán Mỹ – Iran về chương trình vũ khí hạt nhân trong bối cảnh mới

Đỗ Kim Thêm   |    Bauxite Việt Nam

Posted on 17/06/2025 by Boxit VN

https://boxitvn.online/?p=94083

 

Hiện tình

Vào ngày 13 tháng 6 năm 2025, Israel đã phát động một cuộc tấn công quy mô nhắm vào các mục tiêu tại Iran, bao gồm các cơ sở hạt nhân và quân sự, hai ngày trước khi Iran và Mỹ dự định tiếp tục đàm phán về một thỏa thuận hạt nhân ở Oman. Israel đã tấn công Iran với lý do là muốn ngăn chặn chương trình hạt nhân của Iran. Sau đó, Iran quyết định hủy bỏ việc đàm phán.

 

Sau cuộc tấn công của Israel, hiện tình Iran đang rất căng thẳng vì phải chịu nhiều tổn thất nghiêm trọng, nhất là các cơ sở hạt nhân tại Natanz bị thiệt hại nặng nề.

 

Các nhà ngoại giao hai nước nhận thấy rằng cơ hội để tiếp tục đàm phán là mong manh hơn bao giờ hết, trong khi giới quân sự tỏ ra lo ngại nhiều hơn liệu là Israel có đủ khả năng để ngăn chặn các cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân của Iran hay không.

 

Triển vọng tái đàm phán Mỹ – Iran 

Sau nhiều năm cắt đứt quan hệ ngoại giao, Mỹ và Iran đã không tiến hành bất cứ cuộc đàm phán nào về chương trình hạt nhân. Các tranh chấp về vấn đề này đã làm bế tắc bang giao hai nước và cả hai thường xuyên đe dọa và cáo buộc nhau. Mãi đến giữa tháng 4 năm nay, các cuộc đàm phán mới được khởi động lại. Hiện nay, với cuộc tấn công của Israel, nhiều vấn đề mới lại được đặt ra là liệu cơ hội cho các cuộc đàm phán Mỹ – Iran có được khởi động lại hay không, và nếu không, hậu quả sẽ ra sao.

 

Các cuộc đàm phán Mỹ – Iran về một thỏa thuận hạt nhân hiện nay bị gián đoạn, nhưng không nhất thiết phải đi đến kết luận là sẽ thất bại hoàn toàn. Thực tế cho thấy sau khi Israel tấn công Iran, các nỗ lực ngoại giao giữa Washington và Tehran đã bị đình trệ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là cánh cửa ngoại giao bị đóng lại vĩnh viễn. 

 

Nhìn chung, Iran đang đứng trước một bối cảnh mới là chiến cuộc sẽ tiếp tục leo thang và không biết phải làm gì để ứng phó: tìm kiếm một giải pháp để giữ thể diện dù có thể nhượng bộ nhất định, hoặc phải cố gắng tiếp tục con đường đấu tranh kiên cường chống Mỹ. Tehran phải lựa chọn phương sách nào trong những ngày tới, đó là vấn đề. Nhưng tình trạng suy yếu chung của Iran là vô cùng khẩn thiết vì không thể tự vệ trước các cuộc tấn công liên tục và toàn diện của Israel.

 

Tuy nhiên, trong tình hình mới này, giới lãnh đạo ở Tehran cũng sẽ khó từ bỏ chương trình phát triển vũ khí hạt nhân. Tổng thống Mỹ Donald Trump dường như cũng muốn lợi dụng tình thế này, xem các cuộc tấn công của Israel như một phương tiện để gây áp lực lên Iran nhằm đạt được thỏa thuận. Nhưng triển vọng này không phù hợp với logic đang phổ biến ở Tehran để thể hiện thiện chí đàm phán.

 

XEM TIẾP >>>>>  

 

 

 

 

 

=========================

 

 

 

 

Mối đe dọa thật sự từ Iran

Kenneth M. Pollack  -   Foreign Affairs    

Viên Đăng Huy, biên dịch

18/06/2025

https://nghiencuuquocte.org/2025/06/18/moi-de-doa-that-su-tu-iran/

 

Tối ngày 12 tháng 06, chính phủ Israel đã quyết định đánh cược vào một giải pháp quân sự để đối phó với việc Iran theo đuổi năng lực vũ khí hạt nhân kéo dài hàng thập kỷ. Với khả năng vượt trội của Lực lượng Phòng vệ Israel, chiến dịch này có thể gây thiệt hại to lớn cho chương trình hạt nhân của Iran. Nhưng sau đó mới là khó khăn.

 

Iran có những lựa chọn hạn chế để đáp trả trực tiếp. Tuy nhiên, điều nguy hiểm là Israel đã mở hộp Pandora: Phản ứng tồi tệ nhất của Iran, và cũng là khả năng cao nhất — một quyết định rút khỏi các cam kết kiểm soát vũ khí và nghiêm túc chế tạo vũ khí hạt nhân. Việc kiềm chế những cơn thịnh nộ đó về lâu dài có thể là thách thức thực sự đối với cả Israel và Mỹ. Nếu hai bên thất bại, cuộc đánh cược của Israel có thể đảm bảo một Iran có vũ khí hạt nhân thay vì ngăn chặn điều đó.

 

Những lựa chọn tồi tệ của Tehran

 

Cuộc xung đột mới nhất giữa Israel và Iran chỉ vừa mới bắt đầu, còn quá sớm để xác định thời gian giao tranh kéo dài hay mức độ thiệt hại mà Israel sẽ gây ra. Tuy nhiên, Iran hiện đang đối mặt với một số hạn chế đáng kể đối với khả năng chống trả, chấm dứt hoặc thậm chí trả đũa chiến dịch của Israel.

 

Vấn đề đầu tiên của Iran là khoảng cách, và vấn đề thứ hai là hệ thống phòng thủ của Israel. Vì cả hai lý do đó, Tehran có ít khả năng sử dụng không quân của mình chống lại Israel. Hơn nữa, với khoảng cách gần 700 dặm trải dài qua Iraq, Syria và Jordan ngăn cách, Iran không thể tiến hành một cuộc tấn công trên bộ vào Israel. Làm như vậy chẳng khác nào tự sát trước một quân đội Israel có năng lực vượt trội hơn rất nhiều. Do đó, nếu có một cuộc trả đũa quân sự trực tiếp của Iran, nó gần như chắc chắn sẽ được thực hiện bởi các lực lượng tên lửa và drone của Iran, vốn đã chứng tỏ khả năng hạn chế đối với hệ thống phòng thủ của Israel.

 

Các nhà lãnh đạo Iran có thể đã học được từ những thất bại đáng xấu hổ của các cuộc trả đũa đã cố gắng chống lại Israel vào tháng 4 và tháng 10 năm ngoái rằng một động thái tương tự nữa sẽ chỉ khiến họ trông yếu thế hơn. Nhưng cả hai màn đáp trả đó đều cho thấy điều ngược lại: rằng Iran sẽ cảm thấy buộc phải đáp trả Israel, dù chỉ vì danh dự và để cố gắng buộc Israel phải trả giá cho cuộc tấn công của mình. Người Iran đã nỗ lực để cải thiện khả năng tên lửa và drone của họ trong những tháng qua, và có báo cáo rằng họ đã nhận được sự giúp đỡ từ Nga, điều này có thể khiến họ tin rằng họ có thể làm tốt hơn trước đây. Theo đó, một cuộc trả đũa bằng tên lửa và drone là một khả năng rất thực tế, mặc dù khó có thể nói liệu đó sẽ là một đợt tấn công lớn, nhiều đợt nhỏ, hay những cuộc tấn công liên tục, rải rác. Israel có thể có máy bay và drone của riêng mình đang tìm kiếm các bệ phóng của Iran để cố gắng ngăn chặn các cuộc tấn công như vậy và cũng có thể đang tấn công các địa điểm lưu trữ đã biết của Iran.

 

Bất kể cách tiếp cận chính xác là gì, có vẻ như một cuộc tấn công tên lửa hoặc drone khác sẽ không có nhiều tác động đến Israel. Israel vẫn có hệ thống phòng thủ tên lửa đáng gờm, dân số của họ được bảo vệ tốt, và đạn dược của Iran có trọng tải nhỏ và số lượng tương đối ít. Ngay cả khi nhiều tên lửa và drone của Iran lần này xuyên thủng được hệ thống phòng thủ của Israel, chúng có lẽ sẽ không gây nhiều thiệt hại hoặc giết chết nhiều người, đặc biệt là so với những gì các cuộc tấn công của Israel có khả năng gây ra cho Iran.

 

Một lựa chọn khác sẽ là một cuộc tấn công mạng. Iran đã nỗ lực để phát triển khả năng mạng của mình trong những năm gần đây và đã thực hiện một số cuộc tấn công mạnh mẽ, bao gồm cả chống lại Israel. Vào mùa hè năm 2023, Iran đã bắt đầu cắt điện tại các bệnh viện của Israel, cho đến khi Israel đáp trả bằng cách vô hiệu hóa một số lượng lớn hơn nhiều các trạm xăng của Iran.

 

Việc ăn miếng trả miếng này minh họa những bất ổn ở cả hai phía. Không hoàn toàn rõ rằng Iran có những vũ khí mạng nào trong tay hoặc những lỗ hổng nào mà họ có thể đã phát hiện trong cơ sở hạ tầng của Israel. Nhưng giới lãnh đạo Iran không biết Israel có những vũ khí mạng nào trong tay hoặc những lỗ hổng nào mà họ đã phát hiện trong cơ sở hạ tầng của Iran. Hơn nữa, Israel có xu hướng vượt trội hơn Iran trong lĩnh vực mạng, và dân chúng Iran không hài lòng và dễ nổi dậy hơn so với dân chúng Israel, điều này có thể làm tăng sự thận trọng của Iran.

 

Mặc dù Iran thường xuyên được xếp hạng là một quốc gia tài trợ khủng bố hàng đầu, một cuộc tấn công khủng bố vào Israel, đặc biệt là trong thời gian ngắn, cũng sẽ khó khăn tương tự. Hệ thống phòng chống khủng bố của Israel rất đáng gờm, và các cuộc tấn công khủng bố, đặc biệt là những cuộc tấn công gây thiệt hại lớn, không thể được thực hiện chỉ sau một đêm. Chúng cần hàng tháng lập kế hoạch, trinh sát, chuẩn bị và thâm nhập. Trừ khi Iran có một chiến dịch khủng bố đã được lên kế hoạch từ lâu mà họ đã giữ lại, điều này cũng sẽ khó thực hiện như một phản ứng đối với chiến dịch của Israel.

 

Sau đó là viễn cảnh một cuộc tấn công của Iran đã bị đe dọa và lo sợ từ lâu vào xuất khẩu dầu ở Vùng Vịnh, hoặc thậm chí là nỗ lực đóng cửa eo biển Hormuz. Điều này cũng có vẻ ít khả năng xảy ra. Thứ nhất, động thái này sẽ có tác động lớn đến giá dầu và nền kinh tế toàn cầu—và thông qua đó, đến mọi nền kinh tế quốc gia—khiến Iran nhanh chóng từ một nạn nhân đáng thương trở thành một kẻ thù nguy hiểm trong mắt hầu hết các quốc gia khác. Hơn nữa, mặc dù chính quyền Trump đã không làm gì để bảo vệ xuất khẩu dầu ở Vùng Vịnh khỏi cuộc tấn công của Iran trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, việc đóng cửa eo biển Hormuz sẽ là một mối đe dọa nghiêm trọng đến xuất khẩu dầu đến mức Mỹ và các cường quốc phương Tây khác (và thậm chí có thể cả Trung Quốc) gần như chắc chắn sẽ sử dụng vũ lực để mở lại các tuyến đường xuất khẩu. Mặc dù quân đội Mỹ có thể mất vài tuần đẫm máu để nghiền nát các lực lượng quân sự của Iran và mở lại các eo biển, người Iran dường như không ảo tưởng về kết quả cuối cùng. Và Tehran sẽ phải lo lắng rằng một mối đe dọa liều lĩnh như vậy đối với các nền kinh tế thế giới sẽ thuyết phục Washington rằng chế độ Iran phải bị loại bỏ. Nỗi sợ hãi đó chắc chắn lớn hơn khi Tổng thống Mỹ Donald Trump—người đã ra lệnh giết chết tướng Iran Qassem Soleimani vào tháng 1 năm 2020—trở lại nắm quyền.

 

 

Hậu quả khôn lường

 

Phản ứng đáng sợ nhất có thể từ Iran là một phản ứng sẽ không diễn ra trong những giờ hoặc những ngày tới, mà về lâu dài. Tehran có thể rút khỏi Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) năm 1968, vốn là cơ sở pháp lý cho Kế hoạch Hành động Toàn diện Chung (hay JCPOA) năm 2015, tuyên bố rằng họ sẽ chế tạo vũ khí hạt nhân như cách duy nhất để răn đe các cuộc tấn công “vô cớ” như vậy vào Iran, và sau đó thách thức Israel, Mỹ và các quốc gia khác ngăn cản họ làm như vậy.

 

Iran đã có đủ uranium được làm giàu cao để chế tạo một số vũ khí hạt nhân. Số lượng này được đóng gói và được cho là đang được lưu trữ tại ba địa điểm khác nhau, và không rõ liệu Israel có thể phá hủy tất cả chúng trong các cuộc tấn công quân sự đang diễn ra hay không. Iran cũng có số lượng lớn nguyên liệu uranium (gọi là “bánh vàng”) có thể được làm giàu đến cấp độ vũ khí. Người Israel (và chính phủ Mỹ) tin rằng họ biết về tất cả các tầng ly tâm chức năng của Iran, nhưng Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế tin rằng Iran đã chế tạo thêm nhiều máy ly tâm mà không rõ vị trí. Ngay cả khi chúng không phải là một phần của các tầng hoạt động, chúng có thể được tích hợp khá dễ dàng, và Iran có thể chế tạo nhiều thêm nữa. Không có thanh tra IAEA trong nước để thực thi các điều khoản của NPT và JCPOA, các cơ quan tình báo Israel và phương Tây khác có thể gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các địa điểm hạt nhân bí mật, mới của Iran. Họ cũng có thể gặp khó khăn trong việc phá hủy các địa điểm đó ngay cả khi chúng được xác định, vì Iran có thể sẽ tăng cường bảo vệ chúng thậm chí còn hơn cả cấp độ của các cơ sở hiện tại.

 

Các cuộc thảo luận về các lựa chọn của Israel để ngăn chặn chương trình hạt nhân của Iran thường đề cập đến cuộc tấn công của Israel vào lò phản ứng hạt nhân Osirak của Iraq năm 1981. Người ta tin rằng cuộc tấn công đó đã làm chậm đáng kể chương trình hạt nhân của Baghdad, nhờ vậy mà thế giới không phải đối mặt với một Saddam Hussein sở hữu vũ khí hạt nhân. Nhưng trên thực tế, như các nhà phân tích đã tìm hiểu từ các tài liệu và nhà khoa học Iraq sau các cuộc chiến tranh năm 1991 và 2003, Saddam đã phản ứng bằng cách đổ thêm nguồn lực vào chương trình hạt nhân của mình, khiến nó nguy hiểm hơn nhiều lần so với trước khi Israel tiến hành chiến dịch. Saddam có thể đã sản xuất một quả bom vào khoảng năm 1992 đến 1995 nếu Chiến tranh vùng Vịnh và chế độ thanh sát sau đó không chấm dứt chương trình của ông ta.

 

Do đó, thách thức thực sự—đối với Israel, Mỹ và bất kỳ chính phủ nào khác có ý định ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân ở Trung Đông—là tìm cách ngăn chặn Iran đi theo con đường mà Iraq đã đi sau cuộc tấn công Osirak. Thậm chí, tình hình bây giờ còn nguy hiểm hơn khi đó, vì chương trình hạt nhân của Iran đã tiến bộ hơn nhiều, các nhà khoa học của họ có kiến thức hơn nhiều và cơ sở hạ tầng hạt nhân của họ có khả năng hơn nhiều so với Iraq vào năm 1981. Điều này tạo ra tình huống tiến thoái lưỡng nan, trong đó cách tốt nhất để ngăn chặn sự tái lập của Iran sẽ là việc theo đuổi tích cực một thỏa thuận hạt nhân mới với Tehran, vào đúng thời điểm mà giới lãnh đạo Iran sẽ ít quan tâm nhất đến một thỏa thuận như vậy do sự phẫn nộ của họ trước cuộc tấn công của Israel. Và nếu không có một thỏa thuận mới như vậy, Israel có thể đã thành công trong việc làm chậm lại chương trình hạt nhân của Iran trong ngắn hạn—có lẽ trong một hoặc hai năm—chỉ để đảm bảo mối đe dọa của một Iran có vũ khí hạt nhân không lâu sau đó.

 

----------------------------

Kenneth M. Pollack là Phó Chủ tịch phụ trách Chính sách tại Viện Trung Đông, cựu chuyên gia phân tích quân sự Vùng Vịnh Ba Tư của CIA, và cựu Giám đốc các vấn đề Vùng Vịnh Ba Tư tại Hội đồng An ninh Quốc gia.

 

Nguồn: Kenneth M. Pollack, “The Real Threat From Iran”, Foreign Affairs, 13/06/2025

 

 

 

 

 


No comments: