Thái Hạo | Báo Tiếng Dân
17/06/2025
https://baotiengdan.com/2025/06/17/mot-cuon-sach-di-thuong/
HÌNH
:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/06/4.jpg
Ghi
chú của tác giả: Từ trái qua: Nguyễn Đức Tùng, Phạm Xuân Nguyên, Hàm Anh, Minh
Hà, Giáng Vân, Nguyễn Phượng, Hương Lan, và Thu.
1. Nguyễn Đức Tùng từ Canada về Hà Nội, ra mắt
cuốn tiểu thuyết “Thuyền” mà anh vừa in ở NXB Phụ nữ Việt Nam. Tôi không ra dự,
tôi ở nhà đón anh và bằng hữu. Đó là lý do, vừa rất thật, vừa không thật…
Giáo
sư Nguyễn Phượng gọi cho tôi, “Có thể chúng ta sẽ thức suốt đêm”. Trên đường
đi, mọi người nói muốn gặp anh Hoàng Tuấn Công, tôi gọi cho anh. Trời vừa tối,
hai xe tình cờ gặp nhau trên đường rẽ vào núi.
Có
quá nhiều chuyện để nói với nhau. Bởi không có thời gian để đủ cho tất cả,
chính sự im lặng giữ chúng tôi lại bên nhau nhiều nhất, những câu chuyện chỉ
còn là âm nhạc du dương trong niềm giao cảm rộng rãi. Anh Phạm Xuân Nguyên nổi
hứng đọc thơ. Tôi hỏi Hàm Anh về Dạ Thảo Phương. Giáng Vân ngày càng trẻ ra.
Hương Lan đẹp như một ngọn núi đá phủ xanh. Minh Hà vẫn thế, như một người
trong cổ tích ngang qua…
Sau
bữa cơm tối không ai uống nhiều, tôi trải chiếu giữa sân, đèn điện được tắt đi.
Chè xanh, chè khô, nước đậu rang và trái cây. Đêm 19, vầng trăng tròn đã đi xa,
bầu trời mùa hè lấm tấm sao, không ai nhìn rõ mặt nhau.
Chia
tay, Nguyễn Đức Tùng để lại cho tôi một cuốn sách. Tôi đã đọc anh, từ cuốn đầu
tiên cách đây khoảng 15 năm, tác phẩm “Thơ đến từ đâu”, để phục vụ cho việc làm
luận văn. Cho đến nay, anh đã viết nhiều, in nhiều, và Thuyền là cuốn mới nhất, vừa ra lò, dường
như vẫn còn ấm và đang thơm mùi giấy bọc.
2. Buổi chiều, sau giấc ngủ dài yên tĩnh,
tôi cầm “Thuyền” lên tay, thử đọc vài trang. Nhưng tôi quên, cho đến lúc nhận
ra những con chữ đang chìm dần vào bóng tối tự khi nào. Tiếng kêu của công tắc
đèn làm ánh sáng bừng lên như giật mình. Tôi đọc suốt đêm.
Sáng
nay, khi mặt trời đang chìm dưới vách biển nhưng ánh sáng đã hắt lên xa xăm,
tôi gập trang sách lại, đặt lên bàn, mở tất cả những cánh cửa của gian phòng,
và châm một điếu thuốc.
Tôi
không biết đặt cuốn sách của anh lên vị trí nào trên kệ sách của mình, triết
lý, lịch sử, tiểu thuyết, hồi ký, thơ? Là thơ, đó là một cuốn trường ca được viết
bằng lối không xuống dòng, một thứ thi ca núp sâu trong dáng hình của văn xuôi.
Tôi
đã nói với Nguyễn Đức Tùng đêm qua, văn chương của anh là thơ, không phải tiểu
thuyết. Anh đồng tình, rằng anh là một nhà thơ.
Tôi
biết, có những người làm thơ bằng cách liên tục xuống dòng những câu văn xuôi,
lại có những người viết tiểu thuyết bằng cách nối dài những câu thơ. Nguyễn Đức
Tùng đã làm điều ấy, một cách ngoạn mục và đầy kinh ngạc. Anh đi xa tới nỗi, cuốn
sách trở thành một đại dương thơ, đặc quánh, mặn đắng, tinh khiết và sáng rỡ một
cách kỳ vĩ như trăng vàng trên biển vắng.
3. Cuốn sách bắt đầu bằng một buổi đi xem bói của
đôi tình nhân sắp quyết định một việc mà sau đó nó sẽ đâm nát linh hồn họ, suốt
đời: vượt biên.
Bất
chấp số phận, họ ra đi. Và bi kịch bắt đầu. Trên biển lớn hoang vu và hoàn toàn
cô độc, 140 người bị cướp biển tấn công. Những người phụ nữ bị lột truồng và
hãm hiếp ngay trên mặt thuyền, trước mắt những người đàn ông hoàn toàn bất lực.
Cuộc hoan lạc ở địa ngục được tái diễn thêm ba đêm nữa, trước khi nhiều người
Việt bị giết chết và nhiều người khác bị bắt đi, mang bán vào các nhà thổ hay
làm nô lệ tình dục ở đâu đó, và bị lãng quên hoàn toàn.
Anh
mất Liên Hương, người phụ nữ đã nhảy xuống biển từ trên cầu ván lúc đang bước
qua tàu cướp biển. Nàng giữ hồn mình thanh sạch trong sự vô tận của biển cả.
Tôi
không xa lạ với câu chuyện Thuyền nhân. Những gì đã đọc, đã nghe, đã xem, đủ để
tôi biết về hàng triệu sinh linh trôi dạt trên biển đêm trong một tấn bi kịch
đã làm vỡ nát tâm hồn thế kỷ của một cuộc trốn chạy kéo dài từ 1975. Tôi biết,
hàng vạn người đã chết, trôi dạt và tan biến vào lòng đại dương; tôi biết hàng
vạn người khác đã bị giết, bị hãm hiếp, bị bắt đi; tôi biết những người đã hóa
điên và không còn trở lại được nữa; tôi biết những người đàn bà đã sinh ra những
đứa con của cướp biển; tôi biết những câu chuyện ăn thịt nhau để sống sót trên
những chiếc thuyền vượt biên không tìm thấy đường vào bờ… Tôi biết…
Nhưng,
thành thật, tôi đã không biết chúng được nhìn như thế nào từ hai hốc mắt của
chính kẻ đã có lần hóa điên trước tất cả sự cô đơn, sợ hãi, tê dại, căm thù
trong những ngày tháng địa ngục như thế. Phải đến khi đọc Nguyễn Đức Tùng. Với
bút pháp phi thường của mình, anh tái hiện lại chúng, bằng một nỗi đau hoang
dã, trong vắt, thanh tẩy.
Nếu
muốn tìm một câu chuyện về thuyền nhân, câu chuyện của những người coi tự do và
hạnh phúc đáng giá hơn mạng sống và sẵn sàng chết đi để có được nó, ta chỉ cần
gõ vào Google. Mạng internet đủ để làm trán ta lạnh toát như bị một lưỡi dao vừa
chém xuống theo chiều thẳng đứng. Tất nhiên, chỉ trên internet, chứ không phải
trong một ấn bản được in đường hoàng trong nước, như lần hiếm hoi này.
Nguyễn
Đức Tùng không chỉ kể câu chuyện ấy. Dù vẫn có những chi tiết, những sự kiện đủ
để ta hình dung về một cuộc trốn chạy hay một cuộc di trú hãi hùng, nhưng chúng
chưa bao giờ là trung tâm của cuốn sách. Đó chỉ là những chiếc đinh nhọn đóng
chi chít trên thân thể nhân vật, để treo lên đó những bàng hoàng, sợ hãi, bất lực,
đau đớn, vỡ nát.
Tôi
ghét thứ văn chương triết lý, nhưng “Thuyền” của Nguyễn Đức Tùng lại là một cuốn
sách chật cứng triết lý. Tôi sẽ ném nó đi ngay, bởi tôi không cần ai dạy dỗ
mình. Triết lý của anh chẳng ích gì cho đời sống của tôi cả, khi tôi vốn xa lạ
với cuộc đời anh, hay cuộc đời của một đấng bậc cao minh nào đó, thì cũng thế
thôi.
Nhưng
tôi đã giữ rịt lấy cuốn sách suốt từ chiều đến hết đêm, cho đến khi chạm tay
vào bìa sau của nó, và bình thản đặt lên bàn. Nguyễn Đức Tùng không làm triết học.
Anh làm thơ. Đọc, may thay, tôi không thấy anh đang vắt óc nặn ra những đúc kết
cao ngạo nào đó để rao giảng cho cuộc đời. Mà chúng luôn bật ra trong một dòng
chảy tâm lý bất tận của một kẻ mang đầy thương tích và những mê loạn tinh thần.
Tất
cả mọi thứ xáo trộn, bị ngào vào nhau, đứt nối, quay cuồng. Không ai làm triết
học một cách lộn xộn như thế cả.
Tác
giả của nó đã dũng cảm và đủ sự minh mẫn để đứng sang một bên, tôn trọng để cho
nhân vật của mình được trôi đi trong dòng xúc cảm và suy tưởng bất tận. Đó
không phải là “dòng tâm lý”, nó là một dòng sông lớn, đổ từ ngọn núi nghìn mét
xuống vực sâu, hung hiểm và chảy đi mãi mãi. Sau phút cuồng nộ của một độ cao
choáng ngợp, dòng sông trở nên yên tĩnh, lặng lẽ chảy, nhưng sóng dưới lòng sâu
đủ sức cuốn đi tất cả.
4. Tôi không biết nhân vật, người xưng
“tôi” trong cuốn sách, là ai. Có thể là một ai đó, có thể là chính anh, Nguyễn
Đức Tùng, người đã ngồi viết 367 trang sách như một cơn mộng du của một nhà khổ
hạnh đã tìm thấy sự an tĩnh trong tâm hồn sau những ngày đi sâu vào cái chết để
bầu bạn, và bước ra bằng một giấc ngủ thanh bình.
Tất
nhiên, tôi không dại gì đồng nhất Nguyễn Đức Tùng với người xưng “tôi” đang kể
lại câu chuyện của anh ta. Nhưng tôi cũng không thể không thấy anh trong từng
con chữ – một số phận nhỏ bé, vô nghĩa, phi thường, hãi hùng. Và hôm qua, người
đó ngồi trước mặt tôi, vô hại, hiền lành, vụng về. Tôi không thể lý giải được
vì sao người kia và anh lại có thể là một người.
Một
kẻ đã nhiều đêm với đôi mắt trừng trừng nhìn bọn cướp biển vừa uống rượu và nhảy
múa, vừa hãm hiếp những người phụ nữ ngay trước mắt mình; một kẻ vừa bị gãy ba
chiếc xương sườn vì báng súng của cướp biển giờ đang phải ngước lên nhìn người
yêu dấu nhất đời mình lao xuống biển và biến mất; một kẻ đã nhiều lần mê sảng
dưới mặt trời thiêu đốt bởi muối mặn trong cơ thể đã đặc lại vì những cơn khát
đốt cháy làm nứt toác niêm mạc…, một kẻ như thế, làm sao có thể là Nguyễn Đức
Tùng đang ngồi trước mặt tôi?
Tôi
chưa từng trải qua một điều gì như thế cả. Nhưng tôi và anh, ai là người hạnh
phúc? Không, anh không đi tìm hạnh phúc, anh tìm tự do. Người xưng tôi trong cuốn
sách của anh là ai, tại sao anh ta lại nhớ, lại nghĩ, lại trong suốt đến thế?
Điều gì làm cho những nỗi đau có thể xé toạc bất cứ linh hồn nào đã làm anh ta
yêu thương con người và cuộc đời đến thế? Trong một giây phút nào đó, anh ta đã
hận thù, đã nguyền rủa và đau đớn. Nhưng tôi biết, khi ngồi kể lại câu chuyện của
mình, chúng đã trở thành ký ức. Chúng được chưng lên, lóng lánh và sáng rỡ. Nỗi
đau cũng sáng rỡ như mặt trăng phủ bạc trên biển đêm.
5. Một cuốn sách dị thường.
Không phải bởi câu chuyện được kể, dù nó khủng khiếp, tàn nhẫn và độc ác hơn bất
cứ điều gì trên đời này. Mà bởi nó đã lặn vào nơi sâu thẳm nhất trong linh hồn
con người. Nó điêu luyện nhưng đã vượt lên và không còn dấu vết của kỹ thuật.
Những con chữ, dòng chữ trào ra, miên man, bất tận. Có những chương nhiều trang
sách, không một dấu chấm câu. Chữ gọi chữ, chúng chảy ra như nước từ một mạch
nguồn vô tận. Trong mát, ngòn lành. Chúng chảy ra và mang theo tất cả, những u
uẩn, những khổ đau, tình yêu, lòng thương nhớ, niềm bao dung khó hiểu, nỗi hoài
vọng thánh khiết. Chúng chảy ra, cuốn người đọc đi trong một cơn hồi ức mê man
nhưng đầy tình yêu thương dành cho con người, cho quê hương, cho mẹ và cho em.
Chúng dựng ta dậy giữa dòng, và đứng gọi như một cây lục bình nở hoa tím trên
dòng sông miền Tây ngày ra cửa biển đi tìm một vùng tự do nào chưa biết.
Mở
đầu cho một hành trình đi tìm số phận mình, là một cuộc xem bói. Và kết thúc
trang sách là một chuyến gọi hồn. “Khi không còn tin vào con người nữa, người
ta tìm kiếm số phận mình ở thần linh”. Nhưng anh vẫn tin em, anh vẫn tìm em.
Anh thương nhớ, và anh biết rằng, em mãi ở đây, trong đời sống đã từng rách nát
của anh. Anh đã tự chữa lành nó bằng tình yêu mà anh dành cho quê hương, cho
con người, cho một tình nhân khác đã đến bên đời anh, cho tất cả những vụn vặt
quanh anh hàng ngày. Anh tin vào tình yêu, anh tin vào anh và vào đời sống, cái
đời sống dù khổ đau nhưng thiêng liêng vẫy gọi này.
Thuyền, sẽ là một cuốn sách
đáng kể trong lịch sử văn học Việt. Tôi tin như thế. Và tôi mong, nó sẽ được đọc,
bởi nhiều người. Không phải chỉ vì lịch sử, không phải chỉ vì một sự kiện, dù
bi thảm và ghê gớm bậc nhất trong cuộc sinh tồn của một giống nòi, mà vì từ
trong nỗi đau và cái ác vô biên ấy, nó gọi chúng ta thức dậy trong tình yêu
thương đau đớn nhưng ngọt lành đến nghẹt thở.
“Khi
một dân tộc sung sướng, người ta làm gì?
Ôm
lấy nhau. Khóc.
Người
ta làm gì nữa?
Tha
thứ. Tha thứ hết”
6. Buổi sáng,
trong căn nhà vách đất, mặt trời xiên ngang những tia nắng màu trắng bạc, thanh
sạch và dịu dàng. Chúng tôi ngồi bên nhau với trà, cà phê và bánh ngọt. Phạm
Xuân Nguyên lại nổi hứng, anh đọc một bài thơ dài của Lưu Quang Vũ có hai câu
cuối mà tôi chưa bao giờ quên suốt từ ngày học phổ thông: “Vầng trăng lớn mọc
lên từ phía ấy/ Ngọn gió rừng vẫn thổi giữa hồn tôi”.
Hai
hôm rồi tôi bị nấc cụt, tôi hỏi bác sĩ Nguyễn Đức Tùng về chứng bệnh khó chịu ấy.
Anh dứt khoát “đó không phải bệnh”. Một chuyên gia y khoa đột ngột xuất hiện,
anh nói như diễn thuyết. Không ai muốn đứng dậy ra về. Họ phản đối việc về lại
Hà Nội giữa lúc này. Sau cuộc diễn thuyết dài và đầy đam mê của một bác sĩ
không chỉ nói về bệnh tật, mà về cơ thể con người, về tâm trí, về triết học, về
sự vận hành của thế giới, anh dành cho tôi vài lời ngắn ngủi, mờ nhạt về cách
chữa chứng nấc cụt.
Tác
giả của Thuyền và bằng hữu của anh đã ra về, từ trong một góc núi xa. Tôi trở
vào căn nhà của mình, điện thoại im lặng như mọi khi. Tôi chưa làm gì cả như hướng
dẫn của vị bác sĩ nhà văn để chữa chứng nấc cụt đáng ghét của mình, nhưng nó đã
biến mất tự khi nào. Không dấu vết.
Bây
giờ thì mưa, mưa nhỏ, trong trời bừng sáng. Cuốn sách đang nằm trên bàn, màu
xanh và những đợt sóng trắng làm vọng lại những thanh âm của biển cả trong cuộc
di trú khổng lồ và ghê gớm. Bọn trẻ con đang tắm dưới hồ, tiếng nước và tiếng
nô đùa, tan ra mùa hè…
No comments:
Post a Comment