Tại sao Tập nói Mỹ
đang ‘kích động’ Trung Quốc xâm chiếm Đài Loan?
Corey Lee Bell - The Diplomat
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên dịch
Tuyên bố
của Tập Cận Bình phản ánh một nhận thức lâu đời và hiện đã phổ biến rộng rãi
trong giới tinh hoa Trung Quốc về động cơ của Mỹ trong “vấn đề Đài Loan.”
Một
báo cáo gần đây của Financial Times về những bình luận của Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình với Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen hồi
năm 2023 đang làm dấy lên lo ngại trong giới chuyên gia chính sách đối ngoại và
quốc phòng. Điều đặc biệt đáng lo ngại là tuyên bố bất thường của Tập rằng Mỹ
đang ‘kích động’ Trung Quốc xâm chiếm Đài Loan – nhưng Tập đã quyết không bị cắn
câu.
Tuyên
bố này làm dấy lên lo ngại về một môi trường ra quyết định “bị bóp méo” trong
vòng tròn nội bộ ngày càng biệt lập của Tập – một môi trường có thể dẫn đến
tính toán sai lầm chiến lược thảm khốc.
Tuy
nhiên, thực tế đáng lo ngại hơn là thay vì phản ánh những quan điểm cá biệt,
tuyên bố của Tập Cận Bình lại được phát triển từ nhận thức lâu đời và hiện đã
phổ biến rộng rãi trong giới tinh hoa Trung Quốc về những động cơ đen tối của Mỹ
liên quan đến vấn đề mà Bắc Kinh gọi là “vấn đề Đài Loan.” Trung tâm của những
điều này là một tuyên bố cũ, đã được lặp đi lặp lại suốt hàng chục năm qua, rằng
Washington đang “sử dụng Đài Loan để kiềm chế Trung Quốc.”
Quan
điểm của Trung Quốc về việc Washington “dùng Đài Loan để kiềm chế Trung Quốc”
Quan
điểm cho rằng Washington đang “sử dụng Đài Loan để kiềm chế Trung Quốc” bắt đầu
thu hút sự chú ý ở Bắc Kinh sau Khủng hoảng Eo biển Đài Loan lần thứ ba (1996),
khi Bắc Kinh tiến hành các vụ thử tên lửa để trả đũa chuyến thăm Mỹ của Tổng thống
Đài Loan lúc bấy giờ là Lý Đăng Huy. Quan điểm này được phổ biến bởi Lý Gia
Toàn, một chuyên gia nổi tiếng về Đài Loan và là người đã đóng góp cho sách trắng
năm 1993 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, có tựa đề “Vấn đề Đài Loan và sự thống
nhất của Trung Quốc.”
Thông
qua các bài viết của Lý, cùng các học giả và nhà bình luận truyền thông có tên
tuổi khác, ý tưởng này nhanh chóng chuyển từ việc giải thích các quyết định của
Washington khiến Bắc Kinh tức giận thành một mô hình để hiểu toàn bộ các tính
toán của Mỹ liên quan đến điều mà Bắc Kinh gọi là “vấn đề Đài Loan.” Nó trở nên
đặc biệt phổ biến trong các bài viết của Trung Quốc về chính sách của
Washington đối với Đài Loan trong những năm gần đây. Cơ sở dữ liệu thuộc Hạ tầng
Tri thức Quốc gia Trung Quốc (CNKI) hiện có hơn 150 bài báo khoa học đề cập đến
việc “sử dụng Đài Loan để kiềm chế Trung Quốc” trong cả năm 2022 và 2023. Trong
20 năm trước đó, con số hàng năm hiếm khi vượt quá 50.
Hầu
hết các bài viết của Trung Quốc về chủ đề này đều dựa trên một diễn ngôn chung,
rằng kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Washington đã bắt đầu coi Trung Quốc
là đối thủ cạnh tranh lớn nhất hoặc đối thủ tiềm năng của mình, và vì mục đích
duy trì bá quyền Mỹ, họ muốn lợi dụng “vấn đề Đài Loan” để cản trở sự trỗi dậy
của Trung Quốc. Có nhiều cách khác nhau để giải thích chính xác cách mà Đài
Loan sẽ được sử dụng cho những mục đích này. Nhiều nguồn trước đây tập trung
vào ngăn chặn địa chiến lược và hợp tác quân sự Mỹ-Đài. Nhưng trong những năm gần
đây, đã có sự nhấn mạnh hơn vào ngăn chặn ngoại giao và đặc biệt là ngăn chặn
kinh tế của Trung Quốc. Cách giải thích này đã đóng vai trò then chốt trong việc
định hình quan điểm của Trung Quốc, rằng một cuộc chiến ở Eo biển Đài Loan sẽ
có lợi cho chiến lược ngăn chặn của Washington.
Một
chủ đề phổ biến trong các diễn ngôn của Trung Quốc về ngăn chặn kinh tế là các
hành động “khiêu khích” của Mỹ – chẳng hạn như bán vũ khí cho Đài Loan hoặc cử
các thành viên quốc hội đến thăm Đài Loan – là nhằm mục đích kích động Bắc Kinh
đưa ra những tuyên bố hiếu chiến hoặc các cuộc tập trận quân sự trả đũa. Sau
đó, Washington sẽ sử dụng các phản ứng của Bắc Kinh để “thổi phồng” “mối đe dọa
từ Trung Quốc” nhằm làm tổn hại đến danh tiếng của Trung Quốc, cho phép Mỹ biện
minh và kêu gọi sự ủng hộ quốc tế rộng rãi hơn cho các biện pháp gây thiệt hại
cho lợi ích kinh tế của Trung Quốc.
Một
số biện pháp này, như được liệt kê trên các phương tiện truyền thông nhà nước
và các bài viết học thuật của Trung Quốc, bao gồm việc nâng cao nhận thức về “rủi
ro Trung Quốc” để làm suy yếu mong muốn (làm ăn với Trung Quốc) của các nhà cho
vay hoặc nhà đầu tư nước ngoài, tăng cường kiểm soát thương mại như thuế quan,
và xây dựng các liên minh đa phương xoay quanh các biện pháp ngăn chặn kinh tế
và công nghệ, chẳng hạn như kiểm soát xuất khẩu nhắm vào Trung Quốc.
Nhưng
từ lâu, Trung Quốc đã lo ngại rằng một cuộc xâm lược vào Đài Loan sẽ khiến họ
phải chịu các biện pháp ngăn chặn kinh tế và công nghệ khắt khe hơn và được nhiều
người ủng hộ hơn.
Ý
tưởng này đã được thể hiện rõ ràng nhất cách đây vài năm, trong một bài báo của
Thiếu tướng Không quân Trung Quốc đã nghỉ hưu Kiều Lương – người nổi tiếng nhất
ở phương Tây với tư cách là tác giả đầu tiên của “Chiến tranh không hạn chế,” một
cuốn sách thảo luận về cách các biện pháp kinh tế và chính trị có thể trở thành
công cụ mạnh mẽ để giành chiến thắng trong chiến tranh hiện đại.
Trong
một bài báo năm 2020 có tiêu đề “Chúng ta không nên nhảy theo điệu nhạc của người
Mỹ,” Kiều đã kịch liệt chỉ trích lời kêu gọi của các nhà bình luận diều hâu
Trung Quốc nhằm xâm chiếm Đài Loan ngay lập tức trong lúc quân đội Mỹ còn đang
suy yếu do đại dịch COVID-19. Cụ thể, ông lưu ý rằng nếu Bắc Kinh quyết định tấn
công Đài Loan trước khi Trung Quốc thay thế Mỹ trở thành siêu cường hàng đầu,
thì phản ứng của Mỹ trên mặt trận kinh tế, chứ không phải các phản ứng quân sự,
có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Kiều
lập luận rằng “ngay khi chiến tranh nổ ra ở Eo biển Đài Loan, Mỹ… sẽ liên minh
với các nước phương Tây để cấm vận và trừng phạt Trung Quốc… Trung Quốc sẽ
không thể nhập khẩu các nguồn lực mà ngành sản xuất chế tạo của chúng ta cần và
không thể xuất khẩu các sản phẩm đã sản xuất ra, đồng thời, thông qua hai trung
tâm tài chính lớn ở New York và London, [Mỹ sẽ] cắt đứt nguồn cung vốn của
Trung Quốc.” Ông nói thêm, trước những biện pháp như vậy, “sự hồi sinh của
Trung Quốc có thể không bị tiêu diệt, nhưng nó chắc chắn sẽ khiến con đường
phía trước trở nên khó khăn hơn.”
Thuyết
Đài Loan là công cụ tiếp theo của “chiến tranh ủy nhiệm”
Lời
giải thích ở trên – rằng việc Trung Quốc xâm lược Đài Loan có thể giúp
Washington kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc – đã sớm được tiếp nối bởi sự
gia tăng các dự báo cho rằng Washington thực sự có thể muốn điều này diễn ra.
Giúp thúc đẩy sự thay đổi này là quan điểm phổ biến ở Trung Quốc rằng Chiến
tranh Nga-Ukraine là một “cuộc chiến ủy nhiệm” do Washington xúi giục hoặc chí
ít là lợi dụng cơ hội để kiềm chế Nga – một ý tưởng được xây dựng dựa trên những
cáo buộc khác về xu hướng tham gia vào “chiến tranh ủy nhiệm” của Mỹ.
Đáng
chú ý, một bài báo năm 2020 được tái bản bởi Trung tâm Nghiên cứu Phát triển
thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc cho rằng Washington đã tham gia một “cuộc chiến ủy
nhiệm” nhẹ nhàng hơn chống lại Trung Quốc thông qua cáo buộc liên quan đến các
cuộc biểu tình chống Dự luật Dẫn độ hồi năm 2019-2020 ở Hong Kong, và có những
dấu hiệu đáng ngại cho thấy họ sẽ làm điều tương tự thông qua hợp tác quân sự Mỹ-Đài.
Khi những thiệt hại cho cỗ máy quân sự của Nga do cuộc kháng chiến được phương
Tây hậu thuẫn của Ukraine gây ra được bổ sung bởi các biện pháp trừng phạt,
đóng băng tài sản, và các biện pháp kinh tế khác do Mỹ dẫn đầu, các học giả và
nhà bình luận Trung Quốc đã kết hợp các câu chuyện về chiến tranh ủy nhiệm và
ngăn chặn kinh tế, cho rằng Washington có thể áp dụng chiến lược tương tự đối với
Trung Quốc, vốn phụ thuộc nhiều hơn vào phương Tây về kinh tế so với Nga, thông
qua việc kích động chiến tranh ở Đài Loan.
Điều
quan trọng cần lưu ý là các ví dụ cho quan điểm này không chỉ giới hạn ở các diễn
đàn trò chuyện, blog dân túy, hoặc tạp chí giải trí quân sự của Trung Quốc, mà
còn xuất hiện trên các ấn phẩm được nhà nước hậu thuẫn và các nguồn học thuật
có uy tín. Một bài báo trên tạp chí được hỗ trợ bởi Viện Đài Loan Thượng Hải, một
trong những viện chính sách của Trung Quốc chuyên phân tích các vấn đề Đài
Loan, nói rằng Washington có mục đích “sao chép và dán các biện pháp mà họ đã
áp dụng trong xung đột ở Ukraine sang Đài Loan,” đồng thời nói thêm rằng điều
này sẽ giúp Mỹ “áp đặt lên Trung Quốc các biện pháp trừng phạt toàn diện mà nước
này từng áp dụng với Nga, kéo một Trung Quốc đang trỗi dậy trở lại ‘bẫy phát
triển.’”
Một
bài báo khác năm 2023 trên Diễn đàn Thống nhất, một ấn phẩm được tài trợ bởi Hội
đồng Thúc đẩy Thống nhất Quốc gia trong Hòa bình của Đảng Cộng sản Trung Quốc,
khẳng định “trong những năm gần đây, mong muốn trang bị vũ khí cho Đài Loan chiến
đấu trong một cuộc chiến tranh ủy nhiệm ở Eo biển Đài Loan của Mỹ ngày càng rõ
ràng,” đồng thời cho biết mục tiêu của Washington chỉ bị cản trở bởi việc quân
đội Đài Loan không đáp ứng được “yêu cầu của Mỹ về việc chiến đấu trong một cuộc
chiến tranh ủy nhiệm.”
Ngay
cả khi không có cáo buộc trực tiếp về một kế hoạch của Mỹ nhằm kích động Trung
Quốc tham gia cuộc chiến ở Eo biển Đài Loan, những người khác vẫn cho rằng
logic của những ý tưởng này là quá hiển nhiên đến mức chúng có mức độ phổ biến
tương tự ở Washington (Nguyên nhân có lẽ là do bầu không khí chính trị ngày
càng ngột ngạt nên ít được xem xét kỹ lưỡng). Ví dụ, một bài báo có tiêu đề
“Chiến tranh ủy nhiệm của Mỹ ở Ukraine,” của một học giả từ Đại học Công nghệ
Quốc phòng Quốc gia, tuyên bố: “Chúng ta chắc chắn không thể loại trừ khả năng
[Mỹ] sẽ sử dụng và hỗ trợ các lực lượng độc lập của Đài Loan để chiến đấu với
chúng ta trong một cuộc chiến ủy nhiệm.” Một bài báo học thuật khác đề cập đến
chủ đề “chiến tranh ủy nhiệm” của Mỹ cho biết, “Việc Mỹ sử dụng Đài Loan làm lực
lượng đại diện để đối phó với Trung Quốc đại lục có thể châm ngòi cho một cuộc
chiến tranh ủy nhiệm.”
Các
thuyết “mối đe dọa” của hai bên
Điều
đáng lo ngại về các bài viết thuộc loại này là ngay cả những đánh giá cho rằng
Mỹ chỉ muốn khiêu khích Trung Quốc xâm chiếm Đài Loan cũng đang tồn tại trong một
hệ sinh thái quan điểm của giới tinh hoa. Giới này thường ác quỷ hóa điều mà
nhiều học giả và nhà phân tích Trung Quốc xem là một Washington “bị ám ảnh bá
quyền” – những kẻ không quan tâm đến tác động thảm khốc tiềm ẩn của các âm mưu
chính trị thực dụng. Theo nghĩa này, “thuyết mối đe dọa Mỹ” của Bắc Kinh cực
đoan và gay gắt hơn nhiều so với “thuyết mối đe dọa Trung Quốc” của phương Tây
mà Trung Nam Hải thường chỉ trích. Và điều này, đến lượt nó, trở thành trở ngại
lớn cho việc phát triển lòng tin chiến lược mà cả hai bên cần để giải quyết
căng thẳng ngày càng gia tăng.
Ví
dụ, một bài báo có tựa đề “Không mệt mỏi ‘tiêu diệt Đài Loan’,” được đăng trên
một tạp chí do Hiệp hội Quan hệ Xuyên Eo biển thuộc Văn phòng Sự vụ Đài Loan của
Trung Quốc tài trợ, nói rằng việc hy sinh hòn đảo, trái ngược với việc “cứu”
nó, là “một thái độ khách quan, thực chất, và có hệ thống của Mỹ đối với Đài
Loan.”
Một
bài báo cũ hơn được đăng trên hãng truyền thông nhà nước Tân Hoa Xã tuyên bố một
cách kỳ lạ rằng Mỹ muốn ngăn chặn sự thống nhất của Trung Quốc và Đài Loan để
Washington có thể can thiệp quân sự vào khu vực, “buộc Trung Quốc phải duy trì
năng lực quân sự đáng kể và khiến nước này không thể tập trung nỗ lực vào hiện
đại hóa.” Một bài báo khác của Tân Hoa Xã năm 2023, dẫn lời Phó Cục trưởng Cục
Thông tin Văn phòng Sự vụ Đài Loan, Chu Phượng Liên, rằng để duy trì lợi ích bá
quyền của mình, Mỹ “tạo ra các vấn đề trên toàn cầu, gây chia rẽ và xung đột…
dù ở Iraq, hay Syria, hay Afghanistan, rồi rút lui và hưởng lợi, để lại sự hỗn
loạn, chia rẽ, di cư, và chết chóc…. Giờ đây, Mỹ muốn sao chép việc này ở Đài
Loan.”
Trong
những bài báo này và nhiều bài báo khác, những gì có thể được mô tả là thiếu
sót trong chính sách hoặc thất bại chiến lược của Washington – chưa kể đến những
hậu quả do các quyết định của các quốc gia khác – thường bị chôn vùi dưới những
câu chuyện theo thuyết âm mưu, mô tả Washington như một bậc thầy cờ vua địa chiến
lược, kẻ xem bi kịch của con người không phải là một hậu quả không lường trước
hoặc không thể tránh khỏi, mà là một vũ khí chiến lược được lựa chọn.
Tất
cả những điều này – và đặc biệt là những tuyên bố của Tập với Chủ tịch Ủy ban
Châu Âu – cho thấy phương Tây cần xem xét lại cẩn thận giả định ngầm hiểu của họ,
rằng những tiêu đề chỉ trích kịch liệt như những tiêu đề thường nhắm vào
Washington trên tờ Thời báo Hoàn Cầu, hay những lời quở trách gay gắt
trên các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc khác, hoặc trong các bài
phát biểu chính thức hoặc báo cáo công khai, chỉ dành cho độc giả trong nước của
Trung Quốc.
Đối
với những người chỉ trích “thuyết mối đe dọa Trung Quốc” ở phương Tây, nó có lẽ
cũng phản ánh thực tế rằng bất chấp vô số bài viết mà cả hai bờ Thái Bình Dương
đã đưa ra về chính sách đối ngoại và ý định chiến lược của nhau, không bên nào
thực sự hiểu rõ bên kia.
Nhưng
vấn đề quan trọng hơn là tất cả những lời lẽ hùng hồn này đều không phải tin tốt
cho triển vọng ổn định vòng xoáy an ninh đang diễn ra ở Tây Thái Bình Dương. Sự
thiếu hụt lòng tin chiến lược trầm trọng giữa hai cường quốc dường như đang lan
rộng, và hiện đang có tác động chiến lược và sâu rộng hơn đến các quốc gia Thái
Bình Dương từng tham gia vào việc làm trung gian hòa bình trong khu vực.
Ví
dụ, một cuộc thăm dò toàn quốc gần đây do Viện Quan hệ Australia-Trung Quốc
(UTS: ACRI) và Trung tâm Phân tích Dữ liệu và Thông tin Kinh doanh (BIDA) của Đại
học Sydney thực hiện cho thấy một nửa số người Australia đang cảm nhận “mối đe
dọa nghiêm trọng” rằng chiến tranh với Trung Quốc sẽ nổ ra trong vòng ba năm,
trong khi kết quả thăm dò do Văn phòng Nội các Nhật Bản công bố vào đầu năm
2023 cho thấy hơn 85% người Nhật lo ngại rằng đất nước họ có thể bị lôi kéo vào
một cuộc xung đột quân sự hoặc bị xâm lược hoàn toàn. Trong khi những lo lắng về
an ninh theo truyền thống đã thúc đẩy các quốc gia nhỏ hơn hợp tác với các cường
quốc lớn hơn để giảm bớt căng thẳng, thì sự ngờ vực gia tăng đã khiến cả hai cường
quốc tầm trung này, cũng như các bên liên quan khác trong khu vực, ít sẵn sàng
hơn, hoặc không thể lặp lại những thành công trước đó trong việc giúp hai siêu
cường hòa giải những khác biệt.
Do
cả hai siêu cường đều có chung ý định tránh xung đột về Đài Loan, cách tối ưu để
loại bỏ những mô tả sai lầm nghiêm trọng đang hủy hoại lòng tin chiến lược là
hai cường quốc phải tự mình tìm hiểu nhau tốt hơn. Điều này không chỉ đòi hỏi
tham gia vào các cuộc đối thoại cấp cao thường xuyên, mà còn khuyến khích giao
lưu nhân dân rộng rãi hơn giữa các thành viên giới tinh hoa vốn có tiếng nói
trong lĩnh vực phân tích chính sách đối ngoại, an ninh, và quan hệ quốc tế của
cả hai bên. Trong lúc vòng xoáy an ninh ở Tây Thái Bình Dương đang có nguy cơ
leo thang, điều này có thể không đảm bảo hòa bình, nhưng vẫn có thể mang lại một
cơ hội tốt hơn để đạt được hòa bình.
----------------------
Corey
Lee Bell
là nghiên cứu viên tại Viện Quan hệ Australia-Trung Quốc (UTS:ACRI) của Đại học
Công nghệ Sydney và là nhà báo về các vấn đề quốc phòng.
Nguồn: Corey Lee Bell, “Making Sense of Xi’s Claim That the US Is ‘Goading’ China to
Invade Taiwan,” The Diplomat,
27/06/2024
==================
XEM
THÊM
Những bài học lịch sử
về Nga của Tập Cận Bình
No comments:
Post a Comment