Lý
thuyết gia Mác xít cuối cùng
21/07/2024
https://www.voatiengviet.com/a/ly-thuyet-gia-mac-xit-cuoi-cung/7706272.html
Ông
Nguyễn Phú Trọng qua đời sau gần ba chục năm ngồi trong Bộ Chính Trị, đã được bầu
làm Tổng bí thư ba lần, vượt qua giới hạn hai nhiệm kỳ. Giống như Tập Cận Bình ở
Trung Quốc, ông Nguyễn Phú Trọng đã loại trừ được các đối thủ chính trị bằng
phong trào “đốt lò” chống tham nhũng, để thành người lãnh đạo độc nhất và tối
cao.
https://gdb.voanews.com/64a6e785-aa25-4b42-aa6b-04a627f8052d_w1023_r1_s.jpg
Ông
Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, vừa qua đời ngày 19 tháng Bảy tại Hà Nội.
Trong
khi Ban Tuyên giáo Trung Ương Đảng ra lệnh cấm tất cả các cuộc trình diễn sân
khấu, ca nhạc, giải trí khắp nước và soạn lại tiểu sử ông để chuẩn bị “quốc
tang,” Tiến sĩ Nguyễn Quang A ở Hà Nội nhận xét, “… di sản của ông ấy là một
người tham quyền cố vị, kiên định với chủ nghĩa Mác- Lênin…”
Ông
Nguyễn Phú Trọng đã leo dần dần lên ghế Tổng bí thư và kiên trì ngồi đó hơn một
con giáp chính vì được tiếng là người “kiên định với chủ nghĩa Mác- Lênin.” Những
người lãnh đạo trong đảng Cộng sản thường tìm đường thăng tiến qua các vai trò
bí thư từ nhỏ tới lớn hoặc nắm những chức vụ cai trị, quản lý từ cấp dưới đi
lên. Leo trên các nấc thang đó, mỗi lãnh tụ được đánh giá bằng các công việc đã
làm. Ông Nguyễn Phú Trọng khác họ, trước sau chỉ đóng vai một lý thuyết gia.
Ông dùng các lời ca ngợi, biện hộ, cho chủ nghĩa Mác- Lênin, ý chí cương quyết
bảo vệ chủ nghĩa sau khi nó đã sụp đổ ở Liên Xô, coi đó là “thành tích” bảo vệ
địa vị của mình rồi từ từ leo lên các chức cao hơn.
Ông
được tiếng là người không ham làm giàu, kể cả thời gian làm Bí thư Thành ủy Hà
Nội, từ năm 2000 đến 2006. Trong xã hội cộng sản, ngồi giữa đám quan chức chỉ
lo bòn mót, người có cơ hội hái ra tiền mà không biết lợi dụng thì đó là một phẩm
chất. Nhưng chính nhờ phẩm chất này mà các lãnh tụ cộng sản khác không coi ông
là đối thủ có tham vọng tranh phần với mình, cần phải loại trừ. Trước khi lên
ngồi ghế cao nhất trong đảng, ông cũng không bao giờ phê bình, chỉ trích các đồng
sự tham nhũng no nê. Nhờ thế hoạn lộ của ông không trắc trở, cứ từng bước tiến
lên. Khi cuộc tranh giành trong nội bộ đảng khiến Nguyễn Văn An phải từ chức Chủ
tịch Quốc hội, các phe phái không ai chịu nhường ai, đồng ý chọn một vị giáo sư
kiên định, hiền lành, lên thay.
Họ
có thể yên tâm biết rằng Nguyễn Phú Trọng không có tham vọng kiếm chác làm
giàu, vai trò chủ tịch Quốc hội thường cũng không tạo cơ hội liên kết bè đảng để
giành giựt quyền lực chính trị. Hơn nữa, các lãnh tụ cộng sản cũng thấy nhu cầu
đưa một “lý thuyết gia” lên ngồi trên cao, cho toàn dân và các đảng viên lâu
lâu trông thấy trên màn ảnh truyền hình. Trong thực tế, chính các đảng viên cộng
sản ở Việt Nam không còn ai tin và hiểu các lý thuyết mơ hồ của Karl Marx nói
cái gì nữa. Muốn biện minh cho chế độ độc tài toàn trị để công an “làm việc,” cần
một lý thuyết gia đứng ra hô khẩu hiệu. Con người này phải thuộc lòng các khẩu
hiệu, trong lòng vẫn tin tưởng vào các khẩu hiệu dù không biết phải làm gì để
thực hiện; có khả năng nói dài, nói dai dẳng mà không biết xấu hổ; lại có bộ mặt
chững chạc, hiền lành của một ông thầy giáo thì càng tốt. Nếu lại có văn bằng
tiến sĩ do trường đảng cấp cho thì càng uy tín. Nguyễn Phú Trọng từng làm tổng
biên tập Tạp chí Cộng sản, là một “quân bài an toàn.” Ông thành một trong “Tứ
trụ” cầm đầu đảng từ 2006 đến 2011. Phận sự quan trọng nhất của ông là hô hào bảo
vệ chủ nghĩa.
Ông
Nguyễn Phú Trọng đã chuẩn bị cả đời để làm công việc này. Năm 1967 vào đảng Cộng
sản, sau khi học Khoa Văn tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tốt nghiệp bằng Cử
nhân ban Ngữ văn năm 1973; tiếp tục làm nghiên cứu sinh ba năm trong Trường Đảng
rồi lên làm thầy giáo. Trọng du học hai năm tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, những năm cuối của triều đại Tổng bí
thư Leonid Ilyich Brezhnev, lãnh tụ cuối cùng kiên trì bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lê
nin và đưa kinh tế Nga vào cảnh trì trệ cho tới khi sụp đổ. Trọng được cấp bằng
phó tiến sĩ bộ môn Lịch sử. Về nước năm 1983, đến năm 1992 Trọng mới được phong
hàm phó giáo sư, 10 năm sau lên chức Giáo sư chuyên về “Xây dựng Đảng.” Danh hiệu
Giáo sư và công việc nghề nghiệp bảo đảm ông không có thói quen tranh giành quyền
lợi với các lãnh tụ khác, không mấy người coi ông là đối thủ đáng lo ngại.
Cứ
như thế, ông Trọng lầm lũi kiên trì tiến vào vòng trong của guồng máy đảng. Năm
1997 ông vào Trung ương, được bổ sung vào Bộ Chính trị; năm 1999 lên Thường trực
Bộ Chính trị, cái ghế cao hơn. Các lãnh tụ khác vẫn lo thu nhặt bỏ túi để khi về
hưu có thể ngồi cái ghế bằng vàng đặt giữa nhà, hoặc “áo gấm về làng,” khi chết
được xây lăng mộ nguy nga, Nguyễn Phú Trọng chỉ đóng vai “Quan Công phò nhị tẩu,”
thắp đuốc bảo vệ chủ nghĩa, chống đối kịch liệt “diễn biến hòa bình” và các cuộc
“cách mạng màu” ở Bắc Phi và Đông Âu. Ông chờ cơ hội leo lên cái ghế cao nhất.
Có
lúc thành thật, ông Trọng thú nhận “con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội rất mù
mịt, “đến hết thế kỷ 21 này không biết” Việt Nam sẽ tới đó hay chưa. Trên thế
giới hiện chỉ còn mấy nước tự nhận là cộng sản, ông phải dựa vào đó để duy trì
chế độ. Cho nên khi lên chức Tổng Bí thư, ông bay qua Bắc Kinh ngay để diện kiến
Tổng bí thư Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào. Ông theo sát Tập Cận Bình từng bước,
khoác cái áo Mác-Lê nin lên mình như một lá bùa thiêng. Bộ triều phục Mác-Lê
nin của ông Trọng hoàn toàn trống rỗng, nên cũng trong suốt. Giống như ông vua
trong chuyện cổ tích đem khoe bộ áo mới của mình, người ngoài đều thấy ông
không mặc quần áo nào cả. Ai cũng thấy nhưng các đảng viên vẫn phải hoan hô,
khen ngợi bộ hoàng bào của ông Tổng bí thư.
Chắc
ông Trọng biết không thể nào bảo vệ chế độ bằng các bài diễn văn đầy “chữ nghĩa
thánh hiền” mà không ai còn muốn nghe. Cho nên, theo bài học của Lenin, muốn
“xây dựng đảng” cần phải dùng bạo lực. Guồng máy công an, mật vụ đã từng được
Stalin sử dụng để tiêu diệt các đối thủ nội bộ. Cờ đã đến tay, ông Trọng không
ngần ngại theo gương các vị chúa Điện Kremlin. Năm 2021 Bộ Chính trị có 18 người
thì trong đó 5 người gốc công an và 3 người từ quân đội. Công an đã đàn áp, bắt
giam những Trương Duy Nhất, Phạm Đoan Trang, và những người khác, dù họ không
hô hào dân vùng lên đánh đổ chế độ.
Sau
hai nhiệm kỳ, từ 2011 đến 2021, đáng lẽ Nguyễn Phú Trọng phải xuống ghế. Điều lệ
đảng Cộng sản cũng quy định các lãnh tụ đến tuổi 65 phải về hưu. Nhảy qua cả
hai chướng ngại đó, ông được tái cử, nhờ đã phát động kế hoạch Đốt Lò, từ năm
2013!
Từ
đó tới nay, công cuộc Đốt Lò làm chín Ủy viên Bộ Chính trị bị điều tra, bảy
trong số 18 thành viên Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội 13 bị đuổi ra ngoài
trong đó Đinh La Thăng bị bắt, hai chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Võ Văn Thưởng,
một chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phải từ chức.
Nhưng
Tiến sĩ Nguyễn Quang A vẫn phê phán: “… công cuộc đốt lò là hoàn toàn thất bại.”
Đây cũng là một sự thật mà ông vua khoác áo Mác-Lê nin không tự mình nhìn thấy.
Ông Tổng bí thư muốn đốt lò để lau rửa bộ mặt đảng ông sạch sẽ hơn, hy vọng sẽ
được dân chúng tin tưởng. Nhưng khi bắt các quan chức từ chức, tống giam một số
người, ông đều kết tội họ, trước hết, là không làm đúng nhiệm vụ của đảng viên.
Ông nhân danh “luật đảng” chứ không dùng “luật nước.” Không ai biết những người
nào, đến bao giờ mới bị đưa ra tòa án xét xử.
Chiến dịch
đốt lò là hoàn toàn thất bại vì ông Nguyễn Phú Trọng chỉ chặt các cành cây trên
ngọn mà không đụng tới gốc rễ sinh đẻ ra nạn tham nhũng. Tất cả các chế độ độc
tài đều tạo ra và nuôi dưỡng tham nhũng, hối lộ. Muốn trừ tham nhũng phải đề
cao luật pháp, tôn trọng và bảo vệ nền tư pháp độc lập. Lý thuyết Mác-Lê nin
không dạy ông điều căn bản đó. Con người “kiên định với chủ nghĩa Mác- Lênin”
mang cả chủ nghĩa trống rỗng đó xuống lòng đất.
No comments:
Post a Comment