70 năm cuộc di cư
1954: hành trang mang theo đến vùng đất mới
RFA
2024.07.16
Làn sóng di cư năm 1954 của người
từ miền Bắc vào Nam đến nay đã tròn 70 năm. Cuộc di cư có tên tiếng
anh là Operation Passage to Freedom hay Chiến dịch Con đường
đến Tự do.
Người
Bắc di cư từ Hải Phòng năm 1954 (Courtesy
by Naval History and Heritage Command)
Triệu
người di cư vào Nam
Sau
chiến dịch Điện
Biên Phủ kết thúc vào tháng 5/1954, Hiệp định
Geneve
được ký kết vào ngày 21/7/1954. Hiệp định tạm thời chia Việt
Nam thành hai khu vực, lấy sông Bến Hải, vĩ tuyến 17 Bắc
làm giới tuyến quân sự tạm thời. Một
khu phi quân sự rộng 4,8 km ở mỗi bên của đường phân giới chia Việt
Nam thành hai vùng
tập kết quân sự: Việt Minh tập trung tại
miền Bắc, còn quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung tại miền Nam.
Hiệp định
cho phép dân cư giữa hai vùng
di chuyển tự do qua lại trong vòng 300 ngày, từ ngày 15/8/1954 cho tới ngày
15/5/1955, ngày chiếc tàu chở dân di cư cuối cùng
rời khỏi Đồ Sơn trước khi biên giới hai miền đóng cửa.
Nhà
văn Nguyễn Viện,
quê gốc ở tỉnh Hải Dương, kể với RFA rằng khi gia đình ông ra đi vào cuối năm
1954 ông mới được năm tuổi:
“Tôi
rất nhớ là gia đình chúng tôi phải trốn đi trong đêm. Tôi lúc đó năm tuổi, để
trong một cái thúng gánh đi từ quê
lên Hải Phòng. Từ chỗ quê nhà tôi là cái làng
Đồng Xá thuộc tỉnh Hải Dương bây giờ, mà lên Hải Phòng nó khoảng chừng 20km.
Chúng
tôi ở Hải Phòng một tuần lễ thì bắt đầu xuống tàu há mồm. Cái ký ức mà tôi nhớ
không bao giờ tôi quên được là trên con đường
bước xuống tàu thì chúng tôi xếp hàng một đi và cái cơ
quan tổ chức di cư đó họ xịt thuốc sát
trùng lên người giống như là thuốc xịt muỗi bây giờ. Mình giống
như một loại thú vật được sát trùng
trước cho khi lên tàu.
Dĩ
nhiên là mặc dù chúng tôi tình nguyện
đi nhưng mà cái cảm giác mà mình bị xịt
thuốc như vậy đó phải nói là nó là một cái điều gì
nó xúc phạm con người, dân tộc con người gây
gớm.”
Sau
gần một tuần lênh đênh trên biển, gia đình ông Nguyễn Viện được đưa về một khu
tạm cư ở Bến Cát, Bình Dương rồi cùng với những người di cư từ miền Bắc khác lập
thành làng xóm, bắt đầu cuộc sống mới ở đất Bình Dương:
“Chúng
tôi được đổ xuống giữa một cái rừng cao su bạt ngàn và dưới những gốc cây cao
su. Những cái lều bạt tạm được dựng lên để mà tiếp đón
những người di cư như chúng tôi, thì gia đình chúng tôi cũng
có một lều bạt trong một đêm mưa tầm tã.”
Cho
tới khoảng năm 60, sau khi Mặt trận Giải phóng
Miền Nam Việt Nam được thành lập, khu vực sinh sống của gia đình ông Viện trở
thành khu vực oanh kích tự do. Bởi thế, gia đình ông
cũng như tất cả những người trong làng buộc phải rời bỏ làng ra đi. Riêng ông dời
đến Sài Gòn từ đó cho đến nay.
Trong
ký ức của nhà văn Nguyễn Viện, ông và gia đình không gặp trở ngại gì khi bắt đầu
cuộc sống mới trong xã hội miền Nam lúc bấy giờ. Bởi, theo ông:
“Nói chung là cái tình người Nam hay người Bắc nó hoàn toàn
không
phải là vấn đề. Nó chỉ là vấn đề khi nó trở thành vấn đề chính trị thôi chứ
còn giữa con người với nhau thì nó hoàn toàn không vấn đề gì hết.”
Thống
kê cho thấy tổng cộng có gần một triệu người di cư
từ Bắc vào Nam.
Trong
số khoảng một triệu người di cư, có rất nhiều nhân
vật nổi tiếng thuộc đủ các thành phần như chính trị gia, giới trí thức, văn nghệ
sỹ… Họ mang theo các giá trị tinh hoa của miền Bắc trong lĩnh vực của mình,
đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội miền Nam.
Những
đóng góp
Người
di cư đến Sài Gòn sau khi rời khỏi miền Bắc năm 1954. Ảnh: National Archives
Giáo
sư, tiến sỹ giáo dục Đào Thị Hợi, là một trong hai người phụ nữ Việt Nam đầu
tiên tốt nghiệp tiến sỹ ngành giáo dục của Đại học Columbia, vào
năm 1965. Bà kể với Đài Á châu Tự do rằng bà và gia đình rời Hưng
Yên đến Sài Gòn vào tháng 8/1954. Thời điểm đó, cũng có nhiều trí thức rời miền
Bắc, mang theo tất cả sách quý hiếm ở Thư viện quốc
gia vào Nam:
“Những tên tuổi lớn
như là bác Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ... Các ông
đó lúc bấy giờ là sinh viên của trường Văn Khoa, hay là Luật Khoa ở ngoài Bắc đấy.
Họ giỏi lắm, họ mang được cái Thư
viện quốc gia ở đường Tràng
Thi.
Các
anh các chị đó khi đi vào Nam mang được bao nhiêu là sách vở
từ cái thư viện đó vào Nam, chứ không để. Mình biết là
cái lỗi của Cộng
sản là nó đốt phá hết, như là Thời năm 75 đó!”
Ngoài
ra, theo giáo sư Đào Thị Hợi, một loạt các giáo sư là người gốc
Bắc đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực giáo dục,
góp phần đưa Việt Nam trở thành cái tên danh giá trong lĩnh vực giáo dục
trong khu vực:
“Cũng
nhờ ngày xưa mình đã học với Tây cho nên mình tiếp xúc với Âu châu được nhanh
nhẹn hơn các nước khác.
Tôi có
một số người bạn Nam Hàn họ nói rằng người Việt Nam
đi vào nền văn học của các nước khác dễ dàng
hơn là bởi vì mình đã học với Pháp rồi, đã mở cửa ra nhận
tất cả nền giáo dục, văn hóa của các
nước khác.”
Giáo
sư Đào Thị Hợi chính là một thành viên sáng lập Tổ
chức Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á. Đây là một tổ chức liên chính phủ của 11 quốc
gia Đông Nam Á, được thành lập vào ngày 30/11/1965 bởi
Vương quốc Lào, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam Cộng hòa. Tổ
chức này hiện vẫn còn hoạt động với mục tiêu thúc đẩy hợp tác khu vực về giáo dục,
khoa học và văn hóa trong khu vực. Từ năm 1969 cho đến
1971, giáo sư Hợi làm Giám đốc học vụ tại Học viện Sinh ngữ Quân đội ở tiểu
bang Virginia, Hoa Kỳ.
Theo
nhà văn Nguyễn Viện, về khía cạnh văn học, nghệ thuật thì những nghệ sĩ từ miền
Bắc vào Nam là những người đi tìm tự do và
sáng tác của họ đa phần mang khuynh hướng chính trị, tức là cổ vũ cho sự tự do và
đề cao sự tự do:
“Người
ra đi từ miền Bắc mang theo một ý thức chính trị rõ rệt và sang miền Nam với một
ý thức xây dựng một cái xã hội tự do. Bởi thế văn chương của họ là hướng tới cái
sự tự do.”
Theo
nhà văn Đỗ Trường, người chuyên nghiên cứu văn hoá miền Nam, cuộc di cư
của các
văn nghệ sĩ từ Bắc vào Nam năm 1954 đưa đến sự giao thoa,
bổ sung cho nhau của đặc trưng văn học hai miền, làm
cho Văn học miền Nam mới mẻ, phong phú hơn.
Thời
kỳ 1954, theo nhà văn Đỗ Trường, hầu hết các tinh hoa văn học Việt Nam thời kỳ
đó đều tập trung ở đất Bắc. Đặc biệt sự ra đời của
Tự lực văn đoàn do anh em nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam sáng lập. Dường
như đây là nhóm văn học đầu tiên tại
Việt Nam (Hà Nội). Vì vậy, giai đoạn này Văn học miền Bắc có khác so với Văn học
miền Nam (Nam Bộ). Bởi, ngoài tài năng quần tụ, thì tính đặc trưng văn học vùng,
miền này hiện lên khá rõ nét trong các tác phẩm của
nhà văn, nhà thơ. Nếu Văn học phương Nam giản dị,
thì Văn học đất Bắc trau chuốt lắt léo, ẩn dụ, đa tầng ngữ nghĩa, với nhiều hình
tượng trong sự liên tưởng.
Nhà
văn Đỗ Trường nhận xét văn hóa,
ngôn ngữ vùng
miền đã đem sự sinh động cho Văn học, cũng như các bộ môn nghệ thuật khác của
miền Nam.
Nhạc
sỹ Tuấn Khanh, người đã có nhiều năm nghiên cứu âm nhạc Việt Nam trước 1975,
cho biết miền Bắc có cơ hội tiếp nhận văn hóa
âm nhạc phương Tây, tác động đến việc phát triển tân nhạc từ cuối
những năm 1930.
Ca
từ khởi đầu trước khi tách riêng và trở thành nội
dung chuyển tải tâm tình đa dạng và gần gũi, khởi
đầu là phần nhiều đi với cách mô
tả thiên nhiên tựa như thơ Đường Luật. Những bài hát đầu tiên của Đặng Thế
Phong, Đoàn Chuẩn – Từ Linh… là một trong những ví dụ.
Nhưng
từ 1954, các nhà sáng tác như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Anh Bằng… bắt đầu chuẩn
hóa nhạc mới theo nhiều phong cách khác nhau. Cùng
với sự tham gia của các văn nghệ sĩ miền Nam, đến cuối
thập niên 1960, những lối sáng tác đơn âm (monodic), tựa như ca ngâm giai
điệu, đã chuyển qua bước sáng tác đa âm (polyphonic), nhập cuộc với trào lưu
phát triển âm nhạc Anh – Mỹ.
Việc
sáng tác và biểu diễn liên tục, kể cả nắm giữ công nghệ ghi âm ban đầu đã
giúp cho cách hát phát âm giọng Bắc trở thành khuynh hướng chính trong
việc trình bày ca nhạc mới của Việt Nam, có giá
trị truyền thống đến hôm nay.
Cũng
như văn chương, sự có mặt của văn nghệ sĩ miền Bắc vào năm từ 1954 trong âm nhạc
là cả một pho sử thi. Chỉ duy nhất ở miền Nam, và có lẽ mãi về
sau, âm nhạc có nhiều nhánh diễn đạt, không chỉ là yêu đương, mà là những câu
chuyện kể của đời sống, giai cấp, ca ngợi tôn giáo, hay lồng ghép
các giá trị vị nhân sinh (Du ca), vị tha và yêu thương (Phượng Hoàng), hiện
sinh (Lê Uyên Phương), thân phận và lẽ sống (Trịnh Công Sơn)…
Theo
ông Đỗ Trường, những người di cư đã đem cái trang nhã, cầu
kỳ phương Bắc trộn vào cái bình dị, ấm áp của phương Nam, tạo
ra hồn vía mới cho âm nhạc miền Nam. Những ca khúc trữ tình ấy, tuy
nhẹ nhàng, gần gũi mang tính tự sự cá nhân, song rất sang trọng, đi sâu vào mọi
giới thưởng ngoạn. Nó làm cho người nghe, tưởng như Tân nhạc miền Nam đã được
thay da đổi thịt vậy. Việc đưa dân ca vào Tân nhạc,
mà điển hình là nhạc sĩ Phạm Duy không chỉ đưa người nghe trở về với hồn vía dân
ca truyền thống, mà còn làm phong phú nền Tân nhạc Việt.
Thành
tựu to lớn đó không chỉ đào tạo sản sinh ra các thế hệ ca, nhạc sĩ tài năng, đa dạng
với phong cách, nghệ thuật riêng biệt, độc đáo, mà
còn cho hướng người nghe, nhất là giới trẻ đến với âm
nhạc chân thực cùng
giá trị thẩm mỹ.
Vẫn
tồn tại dù có bị khai tử
Sau
1975, ông Đỗ Trường cho biết, không chỉ tác phẩm của các
nhà văn, và các nhà xuất bản gốc Bắc, mà toàn bộ nền văn
học, âm nhạc miền Nam bị khai tử. Toàn bộ sách, báo… nghĩa là tất cả những gì
dính dáng đến chế độ cũ in ấn xuất bản, kể cả tình yêu, hay những sách vô
thưởng vô phạt đều tịch thu, và hóa vàng…
Cũng
như nhưng tác phẩm của
mình, các nhà văn di cư này đều “vào rọ” cả. Có những
bác bị cải tạo tù đày đến trên dưới chục
năm như: Nguyên Vũ,
hay Thảo Trường… Đặc biệt Doãn Quốc Sỹ bị bắt thả,
bắt thả nhiều lần tổng cộng đến 14 năm tù đày.
“Tôi
nghĩ, dường như có sự trả thù, hay gì đó, như nhà
thơ Vũ Hoàng Chương. Một cụ già chuyên thi ca thơ phú tình yêu trong cái lạc
loài của kiếp người, vậy cũng bị tù đày cho đến chết.
Hay những tác phẩm của ông thơ tình Đinh
Hùng cũng đốt bằng sạch cho tuyệt nọc.”
Tuy
nhiên, vẫn có một số sách báo được cất giấu, do chính
những người buộc phải thi hành mang ra Bắc, như truyện của Duyên Anh, Nguyễn Thụy
Long hay Dương Nghiễm Mậu.
Nhà
văn Đỗ Trường cho rằng giá trị, di sản mà các văn nghệ sĩ
thuộc các thế hệ di cư để lại cho miền Nam nói riêng và Việt Nam có thể
nói là vô giá và nó vẫn tồn tại dù có
bị cố tình chôn lấp:
“Những tác phẩm văn học
hội tụ cả hai giá trị nhân đạo, và giá trị hiện thực
như vậy, dù sau 1975 người ta có cố tình hủy diệt, thì nó
vẫn sống và còn sinh sôi nảy nở, không chỉ ở nơi đã sinh ra.”
Với
nhạc sỹ Tuấn Khanh, vào lúc mà tất cả những cuốn sách cũ với những
chủ đề nhạy cảm nhất, vẫn xuất hiện ở trên những hiệu sách đường
phố; cũng như những bài hát của văn hóa
miền Nam VNCH vẫn vang lên khắp nơi như là một phần hiển nhiên không thể chối cãi
trong đời sống Việt nói chung.
“Vì
có lẽ dựa trên nền tảng giáo dục khai phóng và nhân bản, nên mọi sáng tạo đóng góp cho văn hóa
người Việt trong xã hội miền Nam Việt Nam lúc đó, nói chung đều được trân trọng và được giữ gìn.
Câu
chuyện đó bất cứ lúc nào nhìn lại cũng sẽ thấy rằng, may
mà chúng ta đã có được một giai đoạn - dù không là hoàn hảo - nhưng đối chiếu
đến hiện tại vẫn là một điều vô cùng tuyệt vời.”
Cuộc di cư Việt Nam (1954) – Wikipedia tiếng Việt
Cuộc Di Cư 1954. Phim tài liệu, người thật việc thật - YouTube
Lịch Sử Người Việt Tỵ Nạn - Vietnamese Heritage Museum
Sự kiện di cư 1954-1955 trong lịch sử Việt Nam và thế
giới
5 Nguyên Nhân Chính Dẫn đến Cuộc Di Cư 1954
Nhìn Lại Cuộc Di Cư 1954-1955 - Nguyễn Văn Lục
VN: Cuộc Di Cư Lịch Sử 1954 - YouTube
Di cư của người Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt
Bắc Kỳ Di Cư 1954 | Tập San Việt Học
CUỘC DI CƯ NĂM 1954 (NGUYỄN VĂN LỤC) & DI TẢN NĂM 1975
Nhìn lại cuộc di cư 1954-1955 - VietQuoc
No comments:
Post a Comment