Vì
sao Hồ Duy Hải lại bị tình nghi?
Khi suy nghĩ đến việc Hồ Duy Hải có thể bị oan, tôi cũng đặt vấn đề ngược
lại rằng vậy thì vì sao Hồ Duy Hải lại bị tình nghi để rồi bị bắt, hẳn là phải
có một lý do nguyên cớ nào đấy cho thấy một chút dính dáng liên quan mới khiến
cho Hải bị cơ quan điều tra để ý đến.
Theo như thông tin về vụ án thì cơ quan điều tra khi ấy đã căn cứ vào
những số điện thoại liên lạc đến bưu điện Cầu Voi thông qua tra cứu danh bạ cuộc
gọi của một chiếc máy di động mà hai nữ nhân viên bưu điện vẫn thường sử dụng,
khi liên hệ với số máy của một thuê bao thì người này nói rằng Hồ Duy Hải đã
cho cậu ta chiếc sim điện thoại đó, khi cho thì trong sim vẫn còn 80 nghìn đồng.
Có thể ai đó cho rằng vì Hải là người gây án cho nên sau đó đã cho đi
chiếc SIM điện thoại từng liên lạc tới hai cô gái ở bưu điện như một cách xóa bỏ
dấu vết liên quan. Xem những thông tin về vụ án thì tôi chỉ thấy có mỗi lý do
này là nguyên cớ dẫn tới việc triệu tập Hồ Duy Hải, ngoài ra không thấy có manh
mối nào khác dẫn đến Hồ Duy Hải.
Đến đây tôi lại muốn nói về việc sử dụng sim thẻ điện thoại của những
người lứa tuổi của tôi như sau, tôi bắt đầu sử dụng điện thoại di động đâu đó
chừng năm 2006 (trong khi vụ án của Hải xảy ra năm 2008) khi ấy như còn nhớ thì
các sim thẻ điện thoại được bày bán rất dễ dàng phổ biến ở những cửa hiệu nhỏ gần
ngay vỉa hè đường phố.
Khi một người sử dụng muốn mua một chiếc SIM điện thoại thì sẽ được đưa
cho một list danh sách các số điện thoại muốn chọn, sau đấy thì người bán sẽ
kích hoạt cho mình và chỉ việc sử dụng.
Còn nhớ thời điểm ấy đám thanh niên đôi khi mua một chiếc SIM điện thoại
mới chỉ để thực hiện những cuộc gọi miễn phí của nhà mạng rồi sau đó vứt bỏ,
nhiều năm sau mới có quy định việc kích hoạt sử dụng sim điện thoại sẽ gắn liền
với chứng minh thư nhân dân của chủ thuê bao sử dụng.
Nói như thế để muốn nói rằng ở thời điểm năm 2008 việc sử dụng sim thẻ
điện thoại của đám thanh niên là rất thoải mái, cho nên việc cho tặng nhau chiếc
SIM điện thoại là điều bình thường và giá trị của sim điện thoại nằm ở số tiền
còn sử dụng được, nếu như sim không còn tiền thì cho không ai người ta thèm nhận.
Cho nên việc Hồ Duy Hải cho đi chiếc SIM điện thoại vẫn còn tiền thì
không có gì đặc biệt, nhưng đặt trong bối cảnh khi ấy cơ quan điều tra đang
truy tìm thủ phạm thì đó đúng là một dấu hiệu khả nghi dẫn tới việc cần phải
triệu tập thẩm vấn. Nhưng cũng nên biết rằng quá trình điều tra một vụ án sẽ có
nhiều đối tượng có những dấu hiệu khả nghi và không nhất thiết cứ người nào có
dấu hiệu khả nghi thì đúng là thủ phạm.
Tới đây tôi xin kể lại câu chuyện về dấu hiệu khả nghi đã đưa tới việc
bắt giữ gây oan trong vụ án của ông Hàn Đức Long như sau.
Tháng 6 năm 2005, vào một buổi chiều ngày hè, một cháu bé 5 tuổi đã bị
bắt cóc đưa ra cánh đồng trước nhà hãm hiếp và dìm chết tại mương nước cánh đồng.
Sau khoảng 4 tháng điều tra dù đã triệu tập thẩm vấn hàng chục đối tượng tình
nghi nhưng vẫn không xác định được thủ phạm, lúc ấy cơ quan điều tra nhận được
đơn thư tố cáo của hai mẹ con bà cụ người cùng thôn cùng tố cáo một người hàng
xóm là Hàn Đức Long đã từng hiếp dâm mình.
Từ đó ông Long bị triệu tập bắt giam, quá trình điều tra đã khai nhận từng
hiếp dâm cả hai mẹ con bà cụ, đồng thời ông Long cũng khai nhận mình là thủ phạm
hãm hiếp và giết hại cháu bé 5 tuổi.
Trước đấy, khi mà cơ quan điều tra đang ráo riết truy tìm thủ phạm giết
hại cháu bé, mọi động tĩnh bất thường ở địa phương đều được nắm bắt, thì xảy ra
một chuyện là vụ xô xát giữa ông Hàn Đức Long và gia đình của hai mẹ
con bà cụ kia. Do mâu thuẫn đổ đất ngõ đi chung ông Long đã hành hung ném đá
vào người nhà hai mẹ con bà cụ hàng xóm, sự việc này nghiêm trọng đã được công
an xã xử phạt buộc ông Long phải bồi thường cho gia đình hai mẹ con bà cụ, sau
vụ xô xát này thì hai mẹ con bà cụ đã có đơn thư tố cáo ông Hàn Đức Long hiếp
dâm.
Đứng ở góc độ cơ quan điều tra đang truy tìm thủ phạm thì nghi vấn thủ
phạm là đàn ông ở địa phương, trong bối cảnh ấy mà ông Long lại gây ra sự vụ xô
xát thì không khác nào thu hút sự chú ý vào mình.
Ông Hàn Đức Long đã được xác định là bị oan sau khi đã bị tuyên 4 bản
án tử hình trong các giai đoạn xét xử khác nhau. Qua vụ việc này cho tôi kinh
nghiệm rằng, việc nắm bắt những dấu hiệu bất thường là một biện pháp nghiệp vụ
quan trọng mà trong nhiều trường hợp hẳn đã đưa tới hiệu quả chất lượng trong
việc tìm ra được thủ phạm, nhưng điều đó cần được củng cố bổ trợ bằng các chứng
cứ xác thực khác cho thấy nghi phạm đúng là thủ phạm.
Thủ phạm chỉ có một trong khi đối tượng tình nghi thì có nhiều, như thế
thì cần hiểu là nhiều trong số các đối tượng tình nghi không liên quan tới vụ
án và nhiều dấu hiệu bất thường chỉ đơn thuần là những sự việc độc lập trùng hợp
ngẫu nhiên.
Trở lại với vụ án Hồ Duy Hải, đúng ra khi nhận thấy dấu hiệu bất thường
ở việc cho đi chiếc SIM điện thoại thì đưa Hồ Duy Hải vào diện tình nghi thẩm
tra, nhưng sau khi đối chiếu dấu vân tay của Hải không trùng khớp với dấu vân
tay thu thập được ở hiện trường thì khi ấy cần xác định Hải là người không liên
quan, có thể loại bỏ ra khỏi danh sách những đối tượng tình nghi và cần tìm mở
ra những hướng điều tra khác để tìm ra thủ phạm.
P.s Các anh chị và các bạn muốn mua sách này thì nhắn
tin cho mình
HÌNH :
https://www.facebook.com/photo/?fbid=2592611894212590&set=a.537828296357637
Bìa sách “Hành trình minh oan cho tử tù Hàn Đức Long”
.
No comments:
Post a Comment