Andrea Kendall–Taylor và Erica Frantz
Trần Giao Thủy dịch
thuật
POSTED ON MARCH 24, 2023
https://dcvonline.net/2023/03/24/cuoc-chien-vinh-cuu-cua-putin/
C uộc xâm lăng làm Tổng thống Nga
mạnh hơn nữa
Một đám người thân Nga ở Yalta, Crimea, tháng 3 năm
2023. Nguồn: Alexey Pavlishak / Reuters
Hơn một năm sau cuộc xâm lăng Ukraine của Nga,
thực tế nghiệt ngã là chiến tranh sẽ không sớm kết thúc. Bất chấp những cuộc
giao tranh ác liệt trong và xung quanh thành phố Bakhmut ở miền đông và những
khu vực khác của Donbas, không có thay đổi đáng kể ở tiền tuyến trong nhiều
tháng vừa qua. Cuộc tấn công đã đoán trước của Nga dường như đang tiến hành,
nhưng Moscow thiếu khả năng để đạt được bất kỳ thắng lợi đáng kể nào. Ukraine
cũng đang chuẩn bị cho một cuộc phản công vào mùa xuân, nhưng tổn thất về người
và vật chất của họ có thể hạn chế thành công của nó. Cả hai, Tổng thống Nga
Vladimir Putin và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đều không quan tâm đến
những cuộc đàm phán. Với sự bế tắc rõ ràng, câu hỏi đặt ra là hai nhân vật lãnh
đạo này sẽ quyết định chiến đấu trong bao lâu nữa.
Lý do mà Zelensky và Ukraine tiếp tục chiến đấu
rất rõ ràng: nếu họ không làm như vậy, Ukraine sẽ không còn nữa. Cảm nghĩ đó đã
nhiều lần được những nhà lãnh đạo phương Tây nói rõ. Vào tháng 9, Ngoại trưởng
Hoa Kỳ Antony Blinken đã tuyên bố rõ ràng rằng: “Nếu Nga ngừng chiến
đấu, chiến tranh sẽ kết thúc. Nếu Ukraine ngừng chiến đấu, Ukraine sẽ kết thúc.”
Ngay cả khi Zelensky theo đuổi một giải pháp ngoại giao nhượng lãnh thổ cho
Nga, thì vẫn có rủi ro là Moscow có thể tấn công một lần nữa trong tương lai.
Zelensky phải đối phó với điều mà giới khoa học chính trị gọi là vấn đề “cam kết
đáng tin”: ông không thể tin rằng Putin sẽ đồng ý với một giải pháp hôm nay mà
sau đó không tập hợp và lại tấn công vào ngày mai. Chấp nhận một nền hòa bình
được giải quyết ngay bây giờ, Ukraine có thể thấy mình ở một vị trí tệ hại hơn
sau này.
Tính toán của Putin ít đơn giản hơn. Ông vẫn giữ
ý tưởng cho rằng Nga và Ukraine là một quốc gia. Trong bài diễn văn đọc trước
quốc hội Nga vào tháng 2, Putin một lần nữa tuyên bố rằng Ukraine là một phần
“vùng đất lịch sử” của Nga. Nâng rủi ro cao hơn nữa là quan điểm của ông ta cho
rằng cuộc chiến là một phần của cuộc đối đầu lớn hơn giữa Nga và phương Tây. Và
ngay cả khi quân đội Nga đấu tranh để đạt thắng lợi ở chiến trường, ông tin rằng
phương Tây cuối cùng sẽ mệt mỏi vì phải viện trợ cho Ukraine hoặc những thay đổi
chính trị ở Hoa Kỳ và Châu Âu sẽ dẫn đến sự viện trợ quân sự ít hơn cho Kyiv.
Nhưng cũng có thể hiểu được rằng, đối phó với
những thách thức ngày càng gia tăng trong nước và trên chiến trường, Putin có
thể tìm cách thoát khỏi cuộc xung đột. Thương vong của Nga đang lên tới gần
200.000. Mức sống của nhiều người Nga đang giảm và theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, nền
kinh tế Nga tiên liệu chỉ tăng 0,3% trong năm nay sau khi giảm 2,2% vào năm
ngoái. Những người Nga giàu có nhất đã mất tài sản ở phương Tây và nhiều người
không còn được đi lại tự do. Vị thế cường quốc của Nga sẽ tiếp tục bị xói mòn,
đặc biệt là khi nước này vẫn bị cô lập với kỹ thuật và đầu tư nước ngoài, buộc
Nga phải phụ thuộc nhiều hơn vào Bắc Kinh. Putin tiếp tục chiến tranh càng lâu,
nước Nga sẽ càng tệ hơn.
Tuy nhiên, động cơ của giới
lãnh đạo và người dân của họ thường khác nhau. Putin có thể sẽ tiếp tục cuộc
chiến ở Ukraine – không phải vì đó là lợi ích của Nga mà vì đó là lợi ích cá nhân của ông
ta. Tiếp tục chiến đấu có ý nghĩa đối với Putin vì
một lý do căn bản: những kẻ chuyên quyền thời chiến hiếm khi mất quyền lực.
Đang trong tình trạng chiến tranh, dân chúng, quân đội và lực lượng an ninh của
một quốc gia khó có đường để thách thức kẻ lãnh đạo chuyên quyền. Nhưng nó
không đúng với những nhân vật độc tài thua trận; họ dễ bị lật đổ hơn – một số
phận mà nếu nó xảy ra với Putin, có thể gây chết người. Những người đứng đầu những
chế độ độc tài theo chủ nghĩa cá nhân, trong đó quyền lực tập trung gần hết vào
tay một người duy nhất, là những người rất có thể sẽ gặp phải chung cuộc tàn bạo
nhất trong tất cả những người lãnh đạo.
Như vậy, con đường hứa hẹn nhất để ngăn chặn
chiến tranh là bằng sự yểm trợ lớn hơn của Hoa Kỳ và Châu Âu đối với Kyiv. Thêm
viện trợ có thể giúp Ukraine giành được một chiến thắng quân sự quyết định, khiến
những động cơ cá nhân của Putin không còn thích đáng. Và ngay cả khi Ukraine
xác định rằng họ không thể hoàn toàn đánh đuổi quân đội Nga khỏi lãnh thổ, thì
việc định vị Kyiv để đe dọa Putin bằng một thất bại rõ ràng trên chiến trường sẽ
khuyến khích ông ta ngồi vào những cuộc đàm phán với những điều khoản có lợi
hơn cho Ukraine. Cho đến khi Putin phải đối phó với một mối đe dọa khả tín, ông
ấy vẫn có đủ lý do để tiếp tục cuộc chiến.
.
TÍNH TOÁN RỦI RO
Nội chính không chỉ định hình động cơ
khơi mào chiến tranh của những người lãnh đạo; nó cũng dẫn họ đến những quyết
định để kết thúc chiến tranh. Đối với Putin, cuộc chiến ở Ukraine đã phức tạp hóa khả
năng cai trị của ông một cách đáng kể, nhất là vì những thất bại ở đó đã
gây ra những thiệt hại không thể sửa chữa được hình ảnh của ông
như một người lãnh đạo giỏi. Duy trì chiến tranh có lợi cho Putin vì
nó khiến ông kiên cường hơn trước những thách thức trong nước đã chồng chất từ
lúc bắt đầu cuộc xâm lăng. Dùng dữ liệu của hai chuyên gia khoa
học chính trị Sarah Croco và Jessica Weeks, chúng tôi nhận thấy rằng kể từ khi
Thế chiến thứ hai kết thúc, chỉ có bảy phần trăm (7%) những người
theo chủ nghĩa độc tài cá nhân không bị lật đổ trong khi xung
đột giữa những quốc gia bắt đầu dưới sự lãnh đạo của họ vẫn đang
tiếp diễn. Những dữ liệu tương tự khác cho thấy rằng những người lãnh
đạo khởi xướng chiến tranh đặc biệt khó có thể bị lật đổ giữa khi cuộc
chiến đang diễn ra.
Dễ hiểu tại sao xung đột
lại bảo vệ những kẻ chuyên quyền. Việc tiến hành những cuộc
chiến tranh tạo ra động lực khiến việc dàn xếp việc loại bỏ một kẻ độc tài
trở nên khó khăn hơn, chẳng hạn như hiệu ứng tập hợp xung quanh lá cờ trong đó
mọi người bỏ qua những khác biệt chính trị và ủng hộ người lãnh đạo của họ.
Nga cũng không ngoại lệ. Mặc dù rất khó để đánh giá thái độ thực sự của người
Nga về cuộc chiến, nhưng cuộc thăm dò ý kiến của Trung tâm Levada cho thấy tỷ lệ
ủng hộ Putin đã tăng 10% sau khi cuộc chiến ở Ukraine bắt đầu – lên
80% – và vẫn ở mức cao. Những bằng chứng khác cho thấy rằng ngay cả
những người chỉ trích Putin cũng có thể ủng hộ việc tiếp tục chiến
tranh chống lại Kyiv. Như chuyên gia xã hội học người Nga Grigory
Yudin đã lập luận, “ngay cả một số người Nga không có thiện chí với Putin
cũng lo lắng về hạu quả nếu bại trận.”
Putin đã hết sức nỗ lực để kích động những lo
lắng này. Ông ta đã định hình cuộc chiến ở Ukraine là “chính sự tồn tại của đất
nước [Nga của] chúng ta” – một chiến thuật gieo rắc nỗi sợ hãi hữu
ích để buộc dân chúng phải tuân theo chế độ. Khả năng kiểm soát của
ông ta đối với giới truyền thông và khả năng định hình cuộc chiến là
hiện sinh cũng cho phép ông ta gạt những đối thủ ra ngoài lề bằng
cách gán cho họ là những người chống Nga.
Tiếp tục chiến tranh bảo vệ Putin tránh khỏi những
thách thức của giới tinh hoa.
Cuộc xâm lăng cũng khiến Putin dễ dàng
đàn áp những người Nga ít có khuymh hướng im ắng hơn. Luật mới trừng
phạt những kẻ gièm pha lên đến mười năm tù nếu họ lên tiếng phản đối chiến
tranh, và Điện Kremlin đã tiến hành đóng cửa những cơ sở truyền thông độc
lập và những tổ chức phi chính phủ còn lại ở Nga. Hai hành động
này đã giảm thiểu hơn nữa nguy cơ xảy ra những cuộc biểu tình của quần
chúng có thể lật đổ những người lãnh đạo. Chiến tranh cũng đã khiến
hàng trăm ngàn người Nga phải bỏ nước ra đi. Cuộc di cư của họ như một van
giảp áp suất cho chế độ, vì nhiều người trong số những người lưu vong
này là những người có thể thách thức Putin mạnh nhất. Nếu chiến tranh kết
thúc, nhiều người trong số những người Nga lưu vong đó có ý định trở
về nhà hơn là tìm cách hòa nhập vào xã hội lưu vong; đó là một
thách thức trong tương lai mà Putin có thể muốn tránh.
Quan trọng không kém, việc tiếp tục cuộc chiến
sẽ bảo vệ Putin tránh khỏi những thách thức từ giới tinh hoa. Những hệ thống
theo chủ nghĩa độc tài cá nhân như Putin miễn nhiễm đối những cuộc
đảo chính, vì chúng làm cho những tầng lớp tinh hoa yếu đi và buộc chặt tương
lai của họ vào tương lai của người lãnh đạo. Khi đang có chiến tranh
những kẻ chuyên quyền càng được bảo vệ, tránh được mối đe dọa
này. Như công trình của những chuyên gia khoa học chính trị
Varun Piplani và Caitlin Talmadge đã cho thấy, nguy cơ đảo chính giảm đi khi
xung đột tiếp diễn. Chiến tranh cô lập những người lãnh đạo bằng
cách lấy đi nhiều phương cách quan trọng mà giới tinh hoa có thể
lật đổ họ. Chừng nào quân đội Nga còn bận tham gia vào một cuộc xung đột gay gắt
ở Ukraine, thì họ sẽ khó có thể có tổ chức cần thiết cho một kế hoạch đảo
chính. Tương tự như vậy, thương vong cao trong số những sĩ quan cao cấp và
trung cấp càng ngăn cản khả năng hành động của quân đội hơn nữa. Trong khi
đó, những cơ quan an ninh của Nga phần lớn đã hưởng lợi do cuộc
chiến, khi Putin ngày càng dựa vào họ để đàn áp. Do đó, họ có rất ít động lực để
chống lại ông ta.
Tất nhiên, có những thách thức đi kèm với cuộc
chiến dai dẳng. Ví dụ, tình trạng trì trệ kinh tế và thương vong gia tăng có thể
làm gia tăng sự phản đối đối với Putin. Tuy nhiên, những nhân vật độc tài
duy trì được lòng trung thành của quân đội có thể chịu đựng được những
tình trạng cực kỳ nghiêm trọng, và nếu chỉ khó khăn kinh tế thì
nó hiếm khi gây bất ổn cho một nhân vật độc tài. Ví dụ, Tổng thống
Venezuela Nicolás Maduro vẫn tại vị bất chấp kinh tế sụp đổ . Putin cũng có khả
năng chịu đựng được thương vong ngày càng tăng: nghiên cứu cho thấy rằng những
người độc tài cá nhân là những người lãnh đạo ít nhạy cảm nhất với những
cái chết trong thời chiến vì họ chuyển chiến phí cao nhất ra khỏi những nhóm
quan trọng nhất về mặt chính trị một cách hiệu quả. Đây chính xác là những gì
Putin đã làm bằng cách dùng tù nhân và người dân từ những khu vực
nghèo nhất của Nga để chiến đấu.
Trách nhiệm rất rõ ràng của Putin đối với cuộc xâm
lăng có thể khiến ông đặc biệt dễ bị lật đổ.
Nhưng nếu Nga bị đánh bại rõ ràng – chẳng hạn
như mất những phần lãnh thổ của Ukraine mà Moscow đã chiếm giữ trước
cuộc xâm lăng hồi tháng Hai – thì những biện pháp bảo vệ này có thể bị mất.
Nghiên cứu của hai chuyên gia khoa học chính trị Giacomo Chiozza và
Hein Goemans đã tìm thấy rằng khoảng 80% tất cả những nhân vật lãnh đạo nắm
quyền khi kết thúc một cuộc xung đột vẫn cầm quyền sau đó, và trong số những
người lãnh đạo bị lật đổ, tất cả đều đã trải qua một thất bại quân sự. Trên thực
tế, khoảng một nửa số người lãnh đạo thua trận cũng mất quyền lực.
Những cá nhân độc tài như Putin có xu hướng nằm
trong số những người có khả năng phục hồi nhanh nhất trước những thất bại quân
sự. Nhưng kỳ vọng của người lãnh đạo Nga về những gì có thể xảy ra nếu ông bị lật
đổ có thể định hình cách tính toán của ông. Những người lãnh đạo lo ngại
rằng họ sẽ bị bỏ tù, bị đày ải hoặc bị hạ sát – số phận phổ biến nhất đối với
những cá nhân độc tài – đặc biệt nhạy cảm với những rủi ro dù chỉ tăng lên một
chút. Và trách nhiệm rất rõ ràng của Putin về cuộc xâm lăng khiến ông ta đặc biệt
dễ có thể bị tấn công. Theo một nghiên cứu, những người lãnh đạo gây ra
chiến tranh có động lực đặc biệt để tiếp tục chiến đấu – ngay cả khi đối phó với
khó khăn – bởi vì những tác nhân trong nước sẽ muốn trừng phạt họ nếu họ thất bại.
Putin đã thực hiện những bước để cố giảm thiểu
một số rủi ro này. Chẳng hạn, ông đã tránh trình bày rõ ràng những mục tiêu của
ông ta ở Ukraine, tạo ra sự mơ hồ có thể giúp ông bán một kết quả không hoàn hảo
cho khán giả trong nước. Đối với mục đích của ông, một trận hòa có thể là đủ:
Chiozza và Goemans nhận thấy rằng kết quả quân sự mà cả hai bên đều có thể
tuyên bố rằng họ đã đạt được điều gì đó ít ảnh hưởng đến sự ổn định của một người
lãnh đạo. Nhưng trước khi Putin sẵn sàng đồng ý với một dàn xếp – và từ bỏ lợi
ích tăng cường ổn định của chiến tranh – ông ấy phải đối phó với kiểu thất bại
rõ ràng có thể đe dọa đến việc nắm giữ quyền lực của mình.
.
LÚN QUÁ SÂU
Hầu hết những cuộc chiến đều diễn ra nhanh
chóng, chỉ kéo dài trong vài tháng. Nhưng những cuộc chiến kéo dài hơn một năm
có khuynh hướng kéo dài hơn mười năm. Với cam kết về mặt ý thức hệ của Putin đối
với cuộc xâm lăng và những động cơ hình thành tiến trình đi đến quyết định của
ông, cuộc chiến tranh Nga–Ukraine có thể rất phù hợp với tiền lệ lịch sử này. Một
cuộc xung đột kéo dài như vậy đặt ra những rủi ro nghiêm trọng cho Ukraine và
phương Tây. Một cuộc chiến tranh kéo dài không chỉ làm gia tăng thương vong và
sự tàn phá của Ukraine; nó cũng sẽ làm tăng xác suất sự ủng hộ của phương Tây sẽ
giảm dần, dẫn đến kết quả tồi tệ nhất có thể xẩy ra cho cuộc chiến này: một cuộc
chiến mà Nga có thể mở rộng quyền kiểm soát lãnh thổ sang Ukraine.
Những nguy cơ về một cuộc chiến tranh kéo dài
này vẫn chưa được cân nhắc thỏa đáng trong tiến trình chọn quyết định của
Washington và Châu Âu. Thay vào đó, phương Tây tập trung vào những nguy cơ leo
thang, kể cả nguy cơ Putin dùng vũ khí hạch tâm. Rủi ro cụ thể đó đã khiến Hoa
Kỳ và Châu Âu giảm bớt những loại vũ khí mà họ viện trợ cho Ukraine. Tuy nhiên,
cuộc chiến càng kéo dài thì sức yểm trợ của phương Tây càng giảm đi. Mặc dù sự ủng
hộ của lưỡng đảng đối với Ukraine vẫn mạnh mẽ trong Quốc hội Hoa Kỳ, nhưng những
bình luận gần đây của Thống đốc Cộng hòa ở Florida Ron DeSantis rằng Ukraine
không phải là lợi ích “sống còn” của Hoa Kỳ đã nhấn mạnh những quan điểm khác
nhau trên khắp Hoa Kỳ. Theo những cuộc khảo sát của của Associated Press–Trung
tâm nghiên cứu những vấn đề công NORC, sự ủng hộ của công chúng đối với việc viện
trợ cho Ukraine cũng có thể đang giảm, giảm từ 60% vào tháng 5 năm 2022 xuống
còn 48% hiện nay.
Điều đó có nghĩa là nếu Mỹ và châu Âu muốn
tránh những rủi ro của một cuộc chiến kéo dài, họ phải viện trợ nhiều hơn nữa
cho Ukraine. Gần như ngay lập tức, Kyiv cần vũ khí quyết định và với số lượng lớn
hơn. Đặc biệt, Ukraine cần nhiều đạn dược và hệ thống phòng không hơn, cũng như
Hệ thống hỏa tiễn pháo binh cơ động cao, đạn của Hệ thống hỏa tiễn phóng đa hướng
và xe tăng. Hoa Kỳ và Châu Âu cũng nên tăng cường khả năng tấn công của Ukraine
bằng cách viện trợ cho quân đội Ukraine những hệ thống hỏa tiễn chiến thuật: vũ
khí tầm xa giúp Ukraine có khả năng tấn công ở khoảng cách xa hơn, kể cả những
mục tiêu của Nga ở Crimea. Phương Tây cũng có thể tăng cường sức mạnh cho
Ukraine bằng cách viện trợ những phương tiện tấn công trên không mạnh hơn, chẳng
hạn như máy bay chiến đấu và máy bay không người lái tiên tiến.
Phương Tây đã tập trung vào những rủi oleo thang.
Quan trọng là, Hoa Kỳ cần vượt qua khỏi những
lời hứa khoa trương là yểm trợ Ukraine “khi nào còn cần thiết” (như Tổng thống
Hoa Kỳ Joe Biden thường nói) và đưa ra những cam kết rõ ràng về việc mãi mãi yểm
trợ. Chẳng hạn, Quốc hội có thể thông qua luật đưa ra lịch trình dài hạn để
viện trợ vũ khí cho Ukraine. Một kế hoạch mở rộng, rõ ràng như vậy có thể khiến
Moscow trở nên bi quan hơn về tương lai của cuộc xâm lăng. Tiền và tài nguyên
có nhiều khả năng hơn lời nói để định hình những tính toán của Putin về triển vọng
thời chiến của ông.
Ukraine có thể dùng những nguồn lực này để
đánh đuổi hoàn toàn lực lượng Nga ra khỏi biên giới của mình. Nhưng ngay cả khi
không thể giành chiến thắng toàn diện trên chiến trường, một cuộc tấn công khả
tín của Ukraine sẽ làm tăng việc Putin khả dĩ sẽ đi tìm một giải pháp với những
điều khoản có lợi hơn cho Ukraine. Khả năng của Kyiv trong việc đe dọa chiếm lại
lãnh thổ một cách đáng tin cậy là điều rất quan trọng trong việc định hình tính
toán của Putin vì nó gởi đi một tín hiệu rõ ràng về sự kém cỏi của ông ta với
tư cách là một người lãnh đạo, một điều mà Điện Kremlin không thể dễ dàng thao
túng đối với khán giả trong nước. Ví dụ, nếu Kiev có thể giữ Crimea trong tình
trạng nguy hiểm, Putin có thể quyết định rằng vì lợi ích tốt nhất của mình, ông
nên đàm phán một giải pháp không đạt được các mục tiêu chiến tranh của mình để
tránh những hậu quả nội bộ liên quan đến một thất bại nặng nề. Trong một kịch bản
như vậy, Hoa Kỳ và Châu Âu phải sẵn sàng hứa đảm bảo an ninh mạnh mẽ – lý tưởng
nhất là tư cách thành viên NATO cho Ukraine – điều đó sẽ bảo đảm rằng Nga sẽ
không dám xâm lăng một lần nữa.
Chính ảo tưởng tư lợi của Putin về lịch sử và
di sản của ông với tư cách là một người lãnh đạo vĩ đại của Nga đã khơi mào cuộc
chiến này, và chính tư lợi của ông sẽ kết thúc nó. Hiện tại, Putin không có động
lực để ngừng cuộc chiến. Điều đó có nghĩa là Ukraine hoặc phải kết thúc chiến
tranh cho ông ta hoặc đe dọa Putin bằng một thất bại – một thất bại rõ ràng đến
mức ông ta coi việc đàm phán là một vấn đề tự vệ.
Tác giả
https://conference.cnas.org/wp-content/uploads/2020/05/CNAS-Andrea-thumbnail.png
Andrea Kendall-Taylor là Viện sĩ đầu ngành và Giám đốc Chương trình An ninh xuyên Đại
Tây Dương tại Trung tâm An ninh Mỹ Mới.
https://www.lowyinstitute.org/sites/default/files/erica-frantz.jpg
Erica Frantz là Phó Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Tiểu bang Michigan.
© 2023 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
Nguồn: Putin’s Forever
War | Andrea Kendall–Taylor and Erica Frantz | Forign Affairs |
03/23/2023
No comments:
Post a Comment