Chiến tranh Ukraine còn lâu mới kết thúc
Nguyễn Quang Dy
https://nghiencuuquocte.org/2023/03/24/chien-tranh-ukraine-con-lau-moi-ket-thuc/
“Vì chiến
tranh bắt đầu từ trong đầu óc con người, nên việc bảo vệ hòa bình phải được kiến
tạo từ trong đầu óc con người” – Hiến chương UNESCO.
Người ta nói chiến tranh là sự nối tiếp của chính trị. Mọi cuộc chiến
tranh đều phải kết thúc, dù sớm hay muộn. Nhưng một khi đã nổ ra thì chiến
tranh như một con quái vật hung dữ, rất khó kiểm soát. Chiến tranh Ukraine mà
Nga gọi là “chiến dịch quân sự đặc biệt” tuy đã diễn ra hơn một năm, gây tổn thất
nặng nề cho cả Ukraine và Nga, nhưng đa số các chuyên gia cho rằng chiến tranh
Ukraine “còn lâu mới kết thúc”.
Hơn một năm qua, quân đội Nga được cho là đã mất hơn 165.000 quân tại
Ukraine. Tổn thất về người của Ukraine tuy ít hơn Nga, nhưng đất nước này bị
tàn phá nặng nề. Việc tái thiết Ukraine sau chiến tranh là một “cái bánh lớn”
mà các cường quốc đều quan tâm, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Nói cách khác, Mỹ
và Trung Quốc là hai đối thủ chính có vai trò lớn trong việc tái thiết Ukraine,
cũng như trong việc viện trợ cho hai bên kéo dài chiến tranh.
Tạp chí Time tổng kết một
năm chiến tranh ở Ukraine đã dẫn đến bảy hệ quả lớn. Một là NATO đã hồi
sinh. Hai là một châu Âu mạnh mẽ hơn, đoàn kết hơn. Ba là cuộc khủng hoảng tỵ nạn
lớn nhất trong nhiều thập niên. Bốn là sự đan xen giữa kinh doanh và địa chính
trị. Năm là các nước giảm phụ thuộc vào dầu khí của Nga. Sáu là một nước Nga
không hoàn toàn bị cô lập. Bảy là Đài Loan trở thành trọng tâm mới.
Theo đại
sứ Úc John McCarrthy, sau một năm chiến tranh Ukraine, có ba biến chuyển
đáng chú ý. Một là cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng tại khu
vực Bắc Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Hai là diễn biến tại khu
vực này (như chiến tranh Ukraine) sẽ tác động đến khu vực kia (như căng thẳng tại
eo biển Đài Loan). Ba là sự hồi sinh của “các nước phương Nam” lâu nay mờ nhạt.
McCarthy cho rằng Trung Quốc có thể làm “đòn bẩy” trong tiến trình hòa
bình sẽ diễn ra tại Châu Âu. Điều này giúp Trung Quốc có tầm vóc toàn cầu, tuy
lúc này họ chưa khai thác được tiềm năng này. Sáng kiến hòa bình 12 điểm
của Tập Cận Bình (ngày 25/2) tuy bị các nước liên quan bác bỏ, nhưng là bước đầu
đề giúp Trung Quốc có một vai trò ngoại giao tích cực hơn tại Ukraine. Trung Quốc
có thể gắn sự kiềm chế của mình trong việc cung cấp vũ khí cho Nga, với việc Mỹ
kiềm chế trong việc cung cấp vũ khí cho Đài Loan.
.
Tập Cận Bình và Putin
Chuyến thăm Nga của Tập Cận Bình (20-23/3/2023) tuy diễn ra trong bối cảnh
tòa Hình sự Quốc tế (ICC) ra lệnh bắt giữ Putin (20/3) như “tội phạm chiến
tranh” (được 123 nước ủng hộ), nhưng Tập vẫn phải gặp Putin, để khẳng định vai
trò của Trung Quốc. Đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Tập Cận Bình sau
khi Đại hội Đảng 20 khẳng định nhiệm kỳ thứ ba của ông như “hoàng đế” Trung
Hoa. Một năm qua, trong khi Trung Quốc vẫn ủng hộ Nga và đang cân nhắc viện trợ
vũ khí cho Nga như để thách thức lệnh trừng phạt của Mỹ, thì Trung Quốc lại
đang xây dựng hình ảnh và vai trò trung gian hòa giải. Vì vậy, chính quyền
Biden có lý do để lo ngại về nước cờ tiếp theo của Trung Quốc.
Hầu hết các nhà phân tích cho rằng chiến
tranh Ukraine “là một thảm họa cho nước Nga”. Tuy Putin có công phục hồi nước
Nga, nhưng xâm lược Ukraine là một sai lầm chiến lược. Hàng trăm ngàn quân Nga
đã chết hoặc bị thương. Hàng trăm ngàn người Nga có tay nghề cao đã chạy ra nước
ngoài. Nói cách khác, nước Nga có cơ hội trở thành một cường quốc thịnh vượng
trong thế kỷ 21, nhưng Putin đã đánh mất tất cả.
Những gì mà Putin và những người thân cận đã lựa chọn trong hai thập kỷ
qua là từng bước dập tắt hy vọng về một nước Nga mới cởi mở hơn. Thay vào đó là
hoài niệm về một đế quốc Nga trong quá khứ. Putin đã thâu tóm quyền lực và điều
hành chính sách đối ngoại của Nga với nỗi ám ảnh về “đe dọa quân sự từ phương
Tây”. Ông muốn biến nước Nga thành một cường quốc của thế kỷ 19, và kiểm soát
các nước trong Liên Xô cũ, bắt đầu bằng Ukriane. Cánh cửa cơ
hội của Nga đóng lại vĩnh viễn khi Putin ra lệnh xâm lược Ukraine.
Tuy Putin đã sai lầm chiến lược khi quyết định xâm lược Ukraine, nhưng
công bằng mà nói ông đã
đúng trong một số vấn đề nhất định. Một là các biện pháp trừng phạt của
phương Tây không quyết định được kết cục chiến tranh Ukraine. Hai là đa số người
Nga chấp nhận thất bại quân sự với những tổn thất lớn mà không dẫn đến việc lật
đổ Putin. Ba là một số nước khác vì lợi ích của mình, đã không lên án Putin.
Tuy Mỹ, Châu Âu và một số nước đã phản ứng gay gắt với Nga, nhưng “các nước
phương Nam” không muốn theo phương Tây.
Theo Alexander Gabuev, “kế hoạch hòa bình” của Trung Quốc “là cái lá
nho” che đậy sự ủng hộ của Bắc Kinh đối với Nga, bị phương Tây bác bỏ. Mục đích
của Bắc Kinh là tạo dư luận cho rằng Trung Quốc đã đưa ra một “kế hoạch hòa
bình” để hai bên xem xét, nhưng đã bị phương Tây bác bỏ. Nói cách khác, đây chỉ
là một nước cờ nhỏ nhằm dọn đường cho giai đoạn “trước đàm phán”, trong một ván
bài lớn và lâu dài của Bắc Kinh nhằm làm thay đổi trật tự thế giới.
.
Quá trình đàm phán
Theo Thomas Pickering (cựu thứ trưởng ngoại giao và đại sứ Mỹ tại Liên
Hiệp Quốc), không có cuộc chiến tranh nào kết thúc mà không có hậu quả chính trị.
Cuộc chiến tranh Ukraine vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Cả hai bên đều cho rằng
“còn quá sớm cho ngoại giao”. Chiến tranh thường kết thúc với ba giai đoạn đàm
phán: một là “chuẩn bị trước”; hai là trước đàm phán; và ba là đàm phán.
Giai đoạn “chuẩn bị trước” thường để thu xếp các bất đồng nội bộ và kết
nối với các bên liên quan. Giai đoạn “trước đàm phán” thường để chuẩn bị cho
đàm phán chính thức, như xác định thời gian, địa điểm, và những người tham gia.
Giai đoạn ba để đàm phán trực tiếp (thường được gắn với các hoạt động ngoại
giao). Các yếu tố như bối cảnh chính trị, các đòn bẩy, và thực tế diễn ra trên
chiến trường, đều góp phần tác động tới quá trình chuẩn bị đàm phán.
Hiện nay, Tổng thống Putin của Nga và Tổng thống Zelensky của Ukraine đều
muốn giành chiến thắng trên chiến trường. Cơ hội đàm phán chỉ mở ra khi nào triển
vọng quân sự của Nga suy giảm. Các cơ hội đó chỉ thực sự xuất hiện khi nào hai
bên sẵn sàng đàm phán, hoặc là tín hiệu giả khi hai đối thủ tìm cách đánh lừa
nhau. Hiện nay, mục tiêu của bên này còn vượt xa những gì mà bên kia sẵn sàng
chấp nhận. Đối với Nga, phải kiểm soát được Ukraine. Đối với Ukraine, Nga phải
trả lại tất cả các vùng họ chiếm đóng.
Chuẩn bị trước không đòi hỏi các bên phải nhất trí hoàn toàn với nhau về
các vấn đề thực chất. Cũng không cần các bên phải thỏa thuận với nhau, mà chỉ cần
thông cảm với sự khác biệt của các bên (ở Mỹ) như Hội đồng An ninh Quốc gia, Bộ
Ngoại Giao, Bộ Quốc Phòng để sẵn sàng đàm phán. Các nhà ngoại giao Mỹ thường
nói rằng trong bất kỳ cuộc đàm phán nào, cần phải giải quyết tới 60% những khác
biệt giữa các bên trong chính quyền và đội đàm phán. Sự hòa hợp của các bên
không chỉ có ích mà còn là thiết yếu.
Hiện nay, Mỹ vẫn đang trong giai đoạn đầu để chuẩn bị đàm phán. Các nhà
lãnh đạo thế giới đang gia tăng kêu gọi hòa bình. Washington và các bên thứ ba
bắt đầu tiếp xúc không chính thức và bí mật với các bên khác để đánh giá thái độ
của họ về ngoại giao. Những cố gắng để thu xếp các vấn đề nội bộ là vô cùng cần
thiết để chuẩn bị chiến lược. Nhưng điều này là một thách thức khó lường và dễ
thay đổi.
Giai đoạn trước đàm phán nhằm giúp Nga và Ukraine đàm phán trực tiếp.
Phía Mỹ cần nhấn mạnh với các đồng nghiệp Nga và Ukraine rằng kết quả quân sự sẽ
mất nhiều thời gian, tốn kém, và không chắc chắn. Ngoại giao là cách đảm bảo
hơn để đạt được mục đích mong muốn. Cần xúc tiến “đàm phán sơ bộ” nhằm trao đổi
về lập trường, ý tưởng, và thúc đẩy các tiếp xúc trực tiếp. Các bên thứ ba được
Nga và Ukraine chấp nhận, có thể gặp riêng lãnh đạo của hai bên để thăm dò ý tưởng,
mục tiêu và thái độ.
Tăng cường đàm phán trực tiếp, với sự giúp đỡ của bên thứ ba (như Mỹ,
Trung Quốc, Ấn Độ). Bắt đầu giai đoạn trước đàm phán với khuôn khổ không chính
thức, có thể thúc đẩy quá trình đàm phán tiến triển. Tuy đàm phán không chính
thức là một công cụ hữu ích, nhưng nếu lạm dụng cách này quá nhiều, có thể làm
phức tạp thêm vấn đề. Mở cửa cho nhiều bên thứ ba tham gia sẽ tạo cơ hội cho họ
can thiệp, có thể kéo dài đàm phán và dễ gây ra hiểu lầm, như một quả bom nổ chậm
có thể phát nổ bất cứ lúc nào, làm hỏng việc.
Các bên có sẵn sàng chuyển từ giai đoạn “trước đàm phán” sang giai đoạn
“đàm phán” sẽ phụ thuộc một phần vào các sự kiện diễn ra trên chiến trường và một
phần vào nhận thức ai thắng, ai thua. Các bên thứ ba tham gia đàm phán có thể
đóng vai trò thiết yếu trong việc đảm bảo quá trình hòa bình đi đúng hướng. Một
khi các bên đã nhất trí về tiến trình đàm phán trực tiếp, thì khó khăn sẽ bắt đầu.
Việc giữ bí mật nội bộ là rất cần thiết để đàm phán trực tiếp, nhưng điều này
không phải dễ đạt được.
Ukraine có vị trí quan trọng như cái cầu nối giữa EU và Nga. Ukraine
cũng cần một khuôn khổ để tái thiết sau chiến tranh, tái định cư cho người dân,
chống tham nhũng, và đảm bảo quy chế bình đẳng cho cả hai nhóm người nói tiếng
Ukraine và tiếng Nga. Trong bối cảnh đó, Quebec là một mô hình hữu ích để
Ukraine tham khảo. Tuy trưng cầu dân ý không phải là cách tốt nhất, nhưng người
dân Ukraine cần được bỏ phiếu riêng rẽ tại Donbas và Crimea, xem họ muốn là một
phần của Nga hay của Ukraine, hay khu tự trị ở mỗi nước.
Một điều khó nhất trí hơn là quy chế về an ninh: Liệu Ukraine có nên
gia nhập NATO hay là nên gia nhập Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể của các nước
Liên Xô cũ? Liệu Ukraine có nên quyết định điều đó bằng trưng cầu dân ý để phản
ánh đúng nguyện vọng của người dân, với thời hạn mười năm? Thách thức lớn nhất,
nhưng lại được giải quyết cuối cùng, là vấn đề lãnh thổ. Cách an toàn nhất và
công bằng nhất để giải quyết tranh chấp lãnh thổ là hỏi người dân xem họ muốn
là một phần của Nga hay của Ukraine.
Donbass và Crimea sau đó sẽ bỏ phiếu trưng cầu dân ý để xác định xem họ
muốn gắn với Nga hay với Ukraine, trong vòng năm hay bảy năm tới. Tuy Nga và
Ukraine chưa sẵn sàng đàm phán trực tiếp, nhưng với sự thận trọng và kín đáo, Mỹ
và các bên thứ ba khác cần thúc đẩy giai đoạn “chuẩn bị trước” và bắt đầu giai
đoạn “trước đàm phán”. Họ cần xây dựng lòng tin, thuyết phục các bên chấp nhận
thực tế khắc nghiệt, tháo gỡ các trở ngại cho tiến bộ ngoại giao. Nếu không,
Nga và Ukraine có thể bị xô đẩy vào cái vòng xoáy nguy hiểm.
.
Quyết định của ICC
Quyết định của ICC là một đòn hiểm đúng lúc Tập Cận Bình đến Nga gặp
Putin. Không chỉ Putin bị mất uy tín mà Tập cũng bị mất uy tín, nếu ủng hộ “tội
phạm chiến tranh”. Ukraine đã cảnh báo dư luận “đừng rơi vào cái bẫy của Trung
Quốc”. Trong bối cảnh hiện nay, chuyến thăm của Tập không phản ánh nguyện vọng
hòa bình, mà “muốn có vai trò trong việc dàn xếp hậu chiến”. Trung Quốc chỉ muốn ngừng xung đột có lợi cho Nga.
ICC đã từng ra lệnh bắt Tổng thống Muammar Gaddafi (Libya), Tổng thống
Omar al-Bashir (Sudan), và xử cựu Tổng thống Laurent Gbagbo (Bờ Biển Ngà).
Nhưng đây là lần đầu tiên, nguyên thủ quốc gia của một cường quốc là thường trực
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc bị ICC ra lệnh bắt giữ.
Trước mắt, quyết định của ICC đối với Tổng thống Putin và Maria Lvova-Belova
(phụ trách quyền trẻ em của Nga) vì tội bắt cóc hàng vạn trẻ em Ukraine để tẩy
não, tuy chưa tác động đến cuộc gặp Tập-Putin, hay lập trường của Bắc Kinh đối
với Nga, nhưng là một đòn tâm lý nặng nề đối với tinh thần chiến đấu của quân đội
Nga trên chiến trường. Về lâu dài, tuy Putin có thể vẫn an toàn ở Nga, nhưng
đây là một đòn cân não và lâu dài đối với người Nga nói chung và Putin nói
riêng, nếu muốn đến thăm các nước khác.
Ngay sau lệnh của ICC, Tổng thống Biden nói ông tin rằng quyết định của
ICC đối với Putin là “chính đáng”, và nhấn mạnh rằng Putin “rõ ràng đã phạm tội
ác chiến tranh” vì đã ra lệnh xâm lược Ukraine. Về cuộc gặp Tập-Putin,
Chính quyền Biden tin rằng Trung Quốc muốn có vai trò hòa giải giữa Nga và
Ukraine. Nhưng sau phán quyết của ICC, phải soi kỹ vai trò đó của Trung Quốc.
Hầu hết các cơ quan báo chí của Việt Nam đều đưa tin về quyết định của
ICC, nhưng thận trọng và tránh tỏ thái độ, chỉ nhấn mạnh lập trường chính thức
của Nga là “không công nhận thẩm quyền của ICC và coi bất kỳ tuyên bố nào của
ICC là không có hiệu lực pháp lý”. Phản ứng đó của Việt Nam là dễ hiểu, nhưng
so với phát biểu gần đây của tướng Nguyễn Chí Vịnh (23/2) thì yếu hơn nhiều. Việc
yêu hay ghét ai là quyền của cá nhân, nhưng trong thái độ ứng xử đối với cuộc
chiến tranh Ukraine, thì phải đặt lợi ích quốc gia lên trên hết.
Theo báo chí (24/2/2023), tướng Nguyễn Chí Vịnh cho rằng ai phát động
chiến tranh thì người đó phải kết thúc. Đến nay, Việt Nam không dám chỉ đích
danh “Nga xâm lược”. Trong lần bỏ phiếu ngày 23/2 về nghị quyết của Liên Hiệp
Quốc yêu cầu Nga rút quân khỏi Ukraine, Việt Nam tiếp tục bỏ phiếu trắng (trong
số 193 nước, có 141 nước bỏ phiếu thuận, 32 nước bỏ phiếu trắng, 7 nước bỏ phiếu
chống, và 13 nước không bỏ phiếu).
Trước mắt, Trung Quốc đang hưởng lợi do chiến tranh Ukraine. Về lâu
dài, Trung Quốc không thể để mất “cái bánh tái thiết Ukraine”, nhưng “cái bánh
tái thiết nước Nga” còn lớn hơn nhiều. Sau một năm chiến tranh ác liệt, nước
Nga đang bị kiệt quệ, thiếu cả đạn lẫn tiền. Chiến tranh càng kéo dài thì Nga
càng kiệt quệ, và càng phải lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc, như một con nợ lớn.
Nói cách khác, Trung Quốc có cơ hội lớn, không chỉ củng cố được an ninh về phía
bắc, mà còn thâu tóm được nguồn tài nguyên khổng lồ của Nga.
Tướng Mark Milley (Chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân) nói với các bộ
trưởng quốc phòng NATO: “Nga đã thua về chiến lược, về chiến dịch và chiến thuật”.
Có ba kịch bản: một là Ukraine thắng và đuổi quân Nga khỏi lãnh thổ Ukraine;
hai là Nga thắng và Ukraine trở thành một phần Liên bang Nga; ba là một giải
pháp được quốc tế đảm bảo. Đại sứ Úc John McCarthy gợi ý một thỏa thận như
Simla Agreement (1972) giữa Ấn Độ và Pakistan tại Kashmir.
Ngoài ra còn một kịch bản khác là chiến tranh có thể mở rộng thành xung
đột không mong muốn giữa Nga và NATO, với nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Lâu
nay, quan điểm của Putin là nếu không làm chủ được Ukraine thì nước Nga không
còn là một cường quốc. Nga có nguy cơ trở thành một cường quốc khu vực, nhưng
có khả năng đe dọa hủy diệt hạt nhân. Là sỹ quan KGB, Putin biết khai thác tối
đa hiệu quả tâm lý của trò chơi “bên miếng hố chiến tranh”. Đó là nước cờ hiệu
quả trong thế bí.
Henry Kissinger đã nói từ năm ngoái, “kết thúc chiến tranh, phải có chỗ
cho Ukraine và phải có chỗ cho Nga”. Ông cũng thừa nhận rằng Nga có thể tự tách
mình khỏi Châu Âu. Nhưng liệu Nga có còn tồn tại như một cường quốc hay không?
Theo học giả Walter Russell Mead, hậu quả của việc đó rất lớn, xô đẩy Nga vào
khủng hoảng bản sắc với hệ quả chính trị khó lường. Một nước Nga suy tàn có thể
nguy hiểm hơn một nước Nga đang trỗi dậy.
Các học giả Nga cho rằng chúng ta đang chứng kiến “sự giẫy chết kéo
dài” của đế quốc Nga. Đó là “sự sụp đổ hoàn toàn của mọi thứ ở Nga” vì dưới thời
Putin, “tương lai của nước Nga đã bị cắt cụt”. Theo Paul Dipp, một nước Nga bị
suy yếu nghiêm trọng, cô lập và nhỏ hơn có thể trở nên nguy hiểm hơn cho thế giới,
dù kết cục của chiến tranh Ukraine sẽ thế nào đi nữa.
--------------
Tham khảo
1.
What
Putin Got Right, Stephen Walt, Foreign Policy, February 15, 2023.
2.
How
will the war in Ukraine end? Paul Dipp, ASPI, 23 February 2023.
3.
How
the World Changed in the Year Since Russia’s Invasion of Ukraine, Yasmeen
Serhan, Time, February 22, 2023.
4.
Ukraine
War One Year On: The Lessons for Australia, John
McCarthy, Asialink, 1 Mar 2023.
5.
The
Russia That Might Have Been, Alexander Gabuev, FA, March 13, 2023.
6.
How
to Prepare for Peace Talks in Ukraine, Thomas Pickering, FA, March
14, 2023.
7.
How
a warrant for Putin puts new spin on Xi visit to Russia, Matthew
Lee, AP, Mar 19, 2023.
8.
What
does the ICC arrest warrant mean for Putin? Anthony
Deutsch and Stephanie Van Den Berg, Reuters March 19, 2023.
9.
Putin
and Xi: authoritarian bros, John Pietro, Spectator, March 21, 2023.
10. China is already bankrolling Putin’s war
in Ukraine, Ian Williams, Spectator, March 21, 2023.
===============================
Chuyến thăm Nga của Tập thực sự có ý nghĩa gì?
Nguồn: Gideon Rachman, “The real meaning of Xi’s visit to Putin”
Financial
Times, 20/03/2023
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
No comments:
Post a Comment