Ba
đi tù ‘cải tạo’, mẹ đi ‘kinh tế mới’, con nhà nghèo trở thành viện sỹ Viện Hàn Lâm
Kỹ Thuật Mỹ
25/03/2023
Xuất thân từ
gia đình nhà giáo nghèo khó đông anh chị em ở xã Phước Lâm, huyện Long Điền, cô
thôn nữ ngày nào thích thơ ca và văn chương Việt Nam, tò mò muốn tìm cách giữ
ánh sáng ban ngày để dành cho ban đêm học bài vì nhà không có đèn điện, nay trở
thành viện sỹ Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ, rạng danh với
thành tựu quan trọng trong ngành hóa hữu cơ ứng dụng.
https://gdb.voanews.com/01000000-0a00-0242-cccf-08db2ba513d7_cx0_cy29_cw0_w256_r1.jpeg
GS.TS. Nguyễn Thục Quyên vừa được Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia
Hoa Kỳ (NAE) kết nạp làm viện sỹ vào đầu tháng 2/2023. Photo: Courtesy
photo
Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thục
Quyên vừa được Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật
Quốc Gia Hoa Kỳ (NAE) kết nạp làm viện sỹ vào
đầu tháng 2 năm nay. GS. Thục Quyên được các đồng nghiệp tại NAE đánh giá cao về
vai trò lãnh đạo trong giáo dục kỹ thuật và nỗ lực thúc đẩy sự đa dạng ở lĩnh vực
hóa hữu cơ ứng dụng. Bà cũng có những công trình nghiên cứu đặc biệt về quang
điện hữu cơ cho các tòa nhà và nhà kính tiết kiệm năng lượng.
VIDEO :
Phỏng vấn
GS.TS Nguyễn Thục Quyên, tân viện sỹ Viện Hàn lâm KHKT Hoa Kỳ
by VOA
Ngoài vai trò là Giám đốc Trung tâm Polymer và
Chất rắn hữu cơ tại Đại học California, Santa Barbara, Hoa Kỳ, (UCSB) bà còn là
đồng chủ tịch Hội đồng sơ khảo giải thưởng
VinFuture từ năm 2020, được bình chọn là trí tuệ khoa học
mang tầm ảnh hưởng nhất thế giới nhiều năm liên tiếp.
Nhân tháng Lịch sử Phụ nữ Hoa Kỳ, tháng 3, VOA
Việt ngữ có cuộc trò chuyện với GS. TS. Nguyễn Thục Quyên.
VOA: Xin GS cho biết cảm tưởng khi trở
thành người phụ nữ gốc Việt đầu tiên trong NEA?
GS. Nguyễn
Thục Quyên (NTQ): Trước hết xin cho Thục
Quyên kính chào quý thính giả của đài VOA. Thú thật là tôi cũng chưa từng mơ ước
hay tưởng tượng được rằng một ngày nào đó mình sẽ trở thành viện sỹ của Viện
Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ.
Mình thấy vô cùng vinh hạnh bởi vì đó là một
trong những sự công nhận cao nhất từ đồng nghiệp và đây cũng là sự ghi nhận cho
nhiều năm lao động sáng tạo và cống hiến của mình và nhóm nghiên cứu của mình
trong lĩnh vực khoa học. Rất là vui vì được NAE công nhận. Tôi được đào tạo để
trở thành một nhà lý hóa chứ không phải bên khoa học kỹ thuật.
Vinh dự này đánh dấu một cột mốc sự nghiệp rất
quan trọng đối với tôi. Nói chung là tôi không thể làm việc này một mình được
mà có cả một nhóm nghiên cứu của tôi, những sinh viên, tiến sĩ và cộng tác viên
đã làm việc chung với tôi. Ở cấp độ cá nhân thì không có từ ngữ nào có diễn tả
được cảm giác của tôi trước sự công nhận này bởi vì tôi đã vượt qua nhiều thử
thách và khó khăn trong cuộc sống và việc làm để có thể có ngày hôm nay.
Tôi không chỉ hoàn thành ước mơ của riêng bản
thân mình mà còn là cho cả mẹ tôi nữa, cho cả những người phụ Việt Nam và phụ nữ
trên thế giới vì những giấc mơ của họ bị tan vỡ vì những thử thách trong cuộc sống
và lo toan cho gia đình họ. Như mẹ tôi từng ước mơ được học cao hơn nữa và được
trở thành nữ bác sĩ phẫu thuật đầu tiên của thành phố Buôn Ma Thuột, nhưng rồi
mẹ tôi kết hôn năm 18 tuổi rồi sau đó có năm đứa con nên thành thử ước mơ của mẹ
tan thành mây khói.
VOA: Thưa GS, với vai trò mới trong Viện
Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ, GS có kế hoạch gì để thực hiện vai
trò đó?
NTQ: Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ có trách nhiệm
cung cấp tư vấn, khả năng lãnh đạo kỹ thuật để phục vụ quốc gia, và không chỉ
phục vụ cho quốc gia Mỹ mà còn có thể là của thế giới nếu cần. Là một thành
viên của Viện mình có trách nhiệm và bổn phận nhiều hơn trong khoa học. Ngoài
việc đóng góp cho nền khoa học công nghiệp và giáo dục, mỗi người đều cần cố gắng
tạo ảnh hưởng, dùng uy tín của mình để mang đến những thay đổi tích cực cho nền
giáo dục, cộng đồng khoa học ở Mỹ và trên thế giới, và cả cuộc sống của người
dân.
Trách nhiệm của tôi là không chỉ làm công việc
làm hàng ngày trong trường học ở California như là nghiên cứu, giảng dạy, mà
còn có trách nhiệm với cộng đồng khoa học, với thế hệ trẻ trong và ngoài nước,
và của cả xã hội. Tôi tiếp tục hỗ trợ thúc đẩy việc đào tạo và nghiên cứu nhất
là về STEM [STEM là một mô hình giáo dục dạy trẻ em kiến thức, kỹ năng về các
lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học một cách tích hợp liên môn],
tôi cũng muốn tăng sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật nhiều
hơn để nâng cao sự đa dạng và có một cơ hội bình đẳng. Nói chung bây giờ trong
lĩnh vực khoa học, số nam giới vẫn nhiều hơn so với phụ nữ nên tôi cố gắng là
trong tương lai sẽ thay đổi để có nhiều phụ nữ tham gia nghiên cứu khoa học
hơn.
Tôi cũng mong muốn cố gắng hỗ trợ các nhà khoa
trẻ vì thế hệ trẻ rất là quan trọng, đặc biệt là những những thế hệ trẻ thuộc
những nước đang phát triển. Tôi mong muốn đẩy mạnh hỗ trợ, kết nối với các nhà
khoa học nước ngoài trên toàn cầu với nhau, và cả với cộng đồng khoa học Việt
Nam.
Đồng thời tôi sẽ phối hợp sâu hơn với giới
kinh doanh, công ty và các nhà hoạch định về chính sách của chính quyền để đề
ra và thực hiện những chính sách có thể tạo ra sự thay đổi tích cực trong xã hội
như giảm chất thải ra môi trường, tái chế chất nhựa, dùng nhựa phân hủy sinh học
thay vì dùng nhựa plastic, thúc đẩy việc sử dụng năng lượng tái tạo… Đó là những
điều trước mắt tôi muốn thực hiện.
https://gdb.voanews.com/01000000-0a00-0242-5f71-08db2ba4fc6a_w650_r1_s.jpg
GS.TS Nguyễn
Thục Quyên tại một hội thảo khoa học.
VOA: GS có nói về sự chệnh lệch số lượng
nam và nữ làm khoa học. Theo GS, người phụ nữ làm khoa học có những trở ngại,
khó khăn gì so với nam giới?
NTQ: Nữ giới làm khoa học
thì khó hơn nam giới rất nhiều. Điều này không chỉ thấy qua phụ nữ làm khoa học
ở Mỹ mà bất cứ nước nào khi tôi đi công tác thì cũng đều thấy điểm chung này
trên toàn thế giới. Nữ giới làm khoa học rất vất vả vì về nhà họ còn phải chăm
lo cho gia đình, làm nội trợ, lo cho chồng…ngoài việc làm nghiên cứu, giảng dạy.
Họ thường bị thiếu ngủ, thường xuyên vội vã, không có thời gian cho bạn bè,
không có thời giờ lo cho bản, không được gặp bố, mẹ, anh, chị, em…
Phụ nữ làm khoa học phải làm việc chăm chỉ và
tốt hơn rất là nhiều để mà có được sự công nhận giống như là các đồng nghiệp
nam; ở nhiều nước, tiền lương của nữ khoa học lại thấp hơn so với nam giới làm
chung trong các cấp bậc, trong các nghề nghiệp giống nhau…
https://gdb.voanews.com/01000000-0a00-0242-8e46-08db2cbebff5_cx0_cy10_cw100_w650_r1_s.jpeg
GS.TS Nguyễn Thục Quyên tại lễ trao giải VinFuture 2022.
VOA: Lúc nảy GS có nói là trong vai
trò ở Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ, GS khi không chỉ dừng lại
ở trong đất nước Hoa Kỳ mà còn giúp những nước đang phát triển khác. Không rõ
liệu GS có kế hoạch trợ giúp Việt Nam trong công tác khoa học?
NTQ: Tôi rất mong muốn được
giúp đỡ Việt Nam. Từ hồi ra đi từ năm 1991 đến giờ thì lần đầu tiên tôi về nước
- về thăm gia đình thôi – là vào năm 1999. Sau khi trở thành giáo sư đại học
thì tôi bắt đầu về nhiều hơn. Lần gần nhất là vào năm 2023 để tham dự lễ trao
giải thưởng của Quỹ VinFuture. Năm 2022, tôi về nước, Tôi cùng với Tiến sĩ
Phùng Việt Bắc, là nhân viên của quỹ VinFuture, có tới thăm rất nhiều trường đại
học ở Việt Nam. Tôi gặp gỡ các sinh viên, những nhà khoa học, những người làm
nghiên cứu tại vì tôi muốn tìm hiểu thêm về những cái khó khăn, thử thách nào
mà họ phải đối mặt khi mà làm nghiên cứu tại Việt Nam.
Người Việt mình thì rất khó chịu khó, siêng
năng, rất cần cù, thông minh mà nếu có cơ hội thì người ta vươn lên rất thành
công. Tôi trò chuyện với mọi giới từ Bắc tới trong Nam. Đó là chuyến đi rất là
“mở mắt” cho tôi và tôi đã học hỏi từ mọi người…Tôi thấy rằng điều thứ
nhất, Việt Nam cần xây dựng một sở hạ tầng hiện đại nhất để phục vụ nghiên
cứu khoa học khoa học kỹ thuật. Điểm thứ hai, tôi thấy các nghiên cứu
sinh ở Việt Nam không nhận được tiền lương, chỉ một số rất ít mới có và cũng rất
thấp; họ không được tiền lương như bên Mỹ hay châu Âu, do đó họ phải đi làm việc
để kiếm sống, và làm nghiên cứu chỉ là phụ thôi…do vậy họ không tập trung làm
nghiên cứu toàn thời gian được. Một điểm nữa, Việt Nam là nước đang
phát triển…và các nhà khoa học Việt Nam cần hợp tác nhiều và chặt chẽ với nhau.
Ông Bà ta có câu “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao.”
Việt Nam nên vừa thực hiện nghiên cứu ứng dụng
vừa kết hợp nghiên cứu căn bản.
Việt Nam gửi những người trẻ thông minh giỏi
nhất đi du học ở nước ngoài, nhưng người ta học xong và ở lại nước ngoài, vì tại
Việt Nam không có cơ sở hạ tầng và nhiều cơ hội để người ta làm việc nghiên cứu.
Việt Nam cần xây dựng những cơ sở hạ tầng, nếu
như không có tiền để xây tại mỗi trường đại học một cái thì nên xây những cơ sở
làm nghiên cứu chung như bên Mỹ gọi là phòng nghiên cứu quốc gia (national
laboratory). Việt Nam có thể bắt đầu với ba cái trung tâm ở ba miền: Bắc,
Trung, Nam. Những cơ sở này không thuộc về ai cả [mà dùng chung] để cho tất cả
những người làm nghiên cứu muốn sử dụng những cái máy móc nào đó thì họ có thể
viết một cái dự án xin một số giờ, sau đó họ có thể đi vô trong đó làm nghiên cứu.
Tôi hy vọng trong tương lai tôi có thể giúp đỡ được những việc đó nếu Việt Nam
chịu đầu tư vốn. Mô hình cơ sở hạ tầng này rất thông dụng ở Mỹ và những nước
phát triển trên thế giới.
https://gdb.voanews.com/01000000-0a00-0242-97a0-08db2ba52531_cx0_cy9_cw100_w650_r1_s.jpg
GS.
TS Nguyễn Thục Quyên (thứ hai, từ trái) được sinh ra trong gia đình có bố là
cảnh sát đặc biệt, mẹ là giáo viên, nhà có tất cả năm anh em.
VOA:
GS có thể cho biết cơ duyên nào khiến GS dấn thân vào con đường ngành hóa học,
đặc biệt là ngành hóa hữu cơ nghiên cứu về quang điện hữu cơ, cũng như là về
những vật liệu xây dựng tiết kiệm năng lượng?
NTQ: Con đường đến với
khoa học của tôi rất là dài dòng, nó không như những nhà khoa học khác. Khi còn
ở Việt Nam tôi yêu thích lịch sử thế giới và văn học. Tôi rất thích thơ, văn
chương Việt Nam, thích địa lý nữa nhưng mà khi sang Mỹ lúc đó tôi 21 tuổi,
không biết tiếng Anh, chỉ biết vài chữ tiếng Anh thôi, mà theo học văn chương
thì phải đọc sách rất nhiều, tra tự điển mệt lắm. Tôi cũng có lấy một số
lớp…nhưng sau đó từ từ tôi chuyển sang lớp toán, hóa học, rồi học sinh học, vật
lý. Và tôi học những lớp này rất tốt nên thành thử chỉ đi theo con đường hóa
học thôi.
Nói
chung, tôi không phải là nhà hóa học truyền thống. Khi nghĩ về nhà hóa học,
người ta thường nghĩ đến những người làm ra những vật chất gì đó…Tôi thì được
đào tạo trở thành nhà lý hóa, tức là nghiên cứu về tính vật lý, tính hóa học.
Khi
tôi đang làm nghiên cứu để bảo vệ luận án tiến sĩ thì tôi làm nhiều bên căn
bản, nhưng tôi lại rất thích bên ứng dụng vì tôi muốn công trình nghiên cứu của
mình có tác động nào đó trong cuộc sống hằng ngày. Trong các nghiên cứu của
tôi, chất quang học và nhựa liên hợp, tôi muốn ứng dụng những chất này dùng làm
pin năng lượng mặt trời, bóng bán dẫn, bộ tách song quang, điện tử sinh học…Tôi
muốn có những ứng dụng từ những chất hữu cơ.
Tôi
lớn lên từ ngôi làng nhỏ ở Việt Nam, ở Phước Lâm, Phước Tỉnh, Long Điền cho đến
năm lớp 11 thì gia đình tôi chuyển qua Vũng Tàu [tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu]. Khi
lớn lên thì ở làng chưa có điện, tôi ước mơ có cách nào đó để giữ được ánh sáng
ban ngày để dùng cho ban đêm để học bài. Sở thích năng lượng mặt trời của tôi
xuất phát từ đó, nhưng mình không để ý tới. Lớn lên trong sự nghèo khó dẫn đến
sự tìm tòi, óc sáng tạo…Ông bà mình nói “Trong cái khó ló cái khôn”. Bản tính
tò mò, sáng tạo thúc đẩy tôi đi theo con đường nghiên cứu khoa học, còn động
lực theo nghề giáo của tôi xuất phát từ gia đình tôi có bốn thế hệ làm nhà
giáo. Ông cố tôi dạy chữ Nho ở trong làng ngoài Bắc, ông ngoại tôi dạy toán, mẹ
tôi dạy toán [trường] cấp hai.
https://gdb.voanews.com/01000000-0a00-0242-72e4-08db2cbf8789_w650_r1_s.jpeg
GS.
Thục Quyên và các đồng nghiệp nữ.
VOA:
Thưa GS, GS có một cái thông điệp nào đó cho các bạn trẻ mà đang ấp ủ giấc mơ
làm khoa học giống như GS không ạ?
NTQ: Với các bạn trẻ,
tôi khuyên các bạn phải nỗ lực theo đuổi những đam mê và ước mơ của mình và hãy
cố gắng biến giấc mơ thành sự thật, đừng để cho ai ngăn cản việc theo đuổi ước
mơ của mình. Các bạn nên tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người xung quanh mình và
hãy học hỏi từ những người đã thành công. Những người thành công thường cho
mình những lời khuyên rất hữu ích. Những phụ nữ đam mê khoa học nên nói chuyện
nhiều với những nhà khoa học khác để có cơ được học hỏi người ta, được trao đổi
ý kiến, làm việc chung.
Về
phần tôi thì tôi sẵn sàng giúp đỡ những sinh viên trẻ, những nhà khoa học trẻ.
Tôi có những sinh viên liên lạc với tôi từ Ấn Độ, Mexico, và từ các nước Trung
Đông. Họ liên lạc với tôi qua email. Tôi hi vọng trong tương lai tôi có giúp đỡ
được nhiều sinh viên trẻ hơn, nhất là các em sinh viên trẻ Việt Nam.
VOA:
Được biết GS cũng có vai trò trong hội đồng sơ khảo giải VinFuture, xin GS chia
sẻ một vài thông tin về vai trò này?
NTQ: Tôi giúp đỡ sáng
lập quỹ VinFuture này vì nó có ý nghĩa rất lớn trên thế giới.
Đây là cơ hội để góp phần đem lại những tác động tích cực cho Việt Nam nói
riêng và thế giới nói chung. Quỹ VinFuture giúp thế giới biết
tới Việt Nam. Câu hỏi mà mọi người luôn đặt ra là: hiện nay có quá nhiều giải
thưởng, làm sao chúng ta có thể phân biệt được giải thưởng của mình với những
giải thưởng khác trên thế giới? Điều quan trọng nhất là chúng ta không cạnh
tranh với họ, chúng ta chân thành tạo ra một điều gì đó độc đáo, một điều gì đó
khác biệt, một điều gì đó của Việt Nam và là đại diện cho Việt Nam.
Tôi
từng sống trong sự thiếu thốn và nghèo khó, tôi hiểu những người nghèo hoặc người
dân lao động quan tâm những điều gì, họ chỉ lo là có đủ cơm ăn trong ngày, có
được nước sạch để uống, có quần áo, có điện,…còn những việc như khoa học tối
tân như phi thuyền lên sao Hoả, ít ai để ý tới…Vì có nguồn gốc từ Việt Nam,
giải thưởng VinFuture vinh danh những trí tuệ xuất chúng,
những thành tựu khoa học công nghệ và phát minh tạo ra sự thay đổi có ý nghĩa
trên quy mô toàn cầu, mang lại cuộc sống tốt đẹp cho hàng triệu người ở mọi
tầng lớp và ngành nghề.
VOA:
GS có thể cho biết một số thông tin về gia đình, sở thích của GS không ạ?
NTQ: Tôi sinh ra trong
một đình có 5 anh chị em ở Buôn Ma Thuột. Ba tôi là cảnh sát đặc biệt, mẹ tôi
là giáo viên dạy toán cấp 2. Khi tôi lớn lên thì chỉ biết ba chơi nhạc trong
phòng trà. Tôi không biết ba là cảnh sát đặc biệt cho tới khi tôi học cấp hai.
Trong
chiến tranh nhà tôi bị bỏ bom nên mất tất cả mọi thứ, và sau 1975 khi gia đình
đi về Sài Gòn thì ba tôi đi học cải tạo hơn 5 năm [Chương trình giam giữ tập
trung tù binh của chính quyền Việt Nam sau 1975 đối với binh lính chế độ Việt
Nam Cộng hòa hay những người tham gia phục vụ cho chính quyền này]. Gia đình
tôi đi kinh tế mới [chính sách cưỡng bức giãn dân có nguồn gốc Việt Nam Cộng
Hòa nhằm được cho là dễ kiểm soát “phần tử chống đối” sau 1975], mua rơm cối
xây nhà nhỏ ven sông ở Phước Lâm. Mẹ tôi không được đi dạy học nên cuộc sống
rất khó khăn, một thời gian sau nhà nước mới cho đi dạy học.
Năm
tôi 21 tuổi thì gia đình tôi định cư sang Mỹ theo diện HO. Lúc ban đầu gia đình
sống ở bang Michigan, sau đó chuyển về Nam California. Tôi đã trải qua nhiều sự
nhọc nhằn, bố mẹ làm đủ nghề như là đi may, rửa chén cho nhà hàng, phụ bếp, rồi
lại may, rồi mở tiệm nail.
Tôi
đi học adult schools [trường dành cho người trưởng thành] ở Los Angeles, học ba
trường/ngày vì quyết tâm học tiếng Anh cho thật lẹ. Vào 1993, tôi học trường
đại học cộng đồng Santa Monica. Tôi vừa học vừa làm thêm ở thư viện và giúp mẹ
ở tiệm nail nhưng cũng không đủ tiền sinh sống nên tôi mượn thêm tiền của chính
phủ (loan).
Năm
1995 vừa đi làm vừa đi học Đại học California ở Los Angeles. Tôi rửa dụng cụ
thí nghiệm cho một phòng nghiên cứu. Thấy họ làm thật thích nên tôi cũng xin
làm nghiên cứu nhưng người ta nói tiếng Anh của tôi không giỏi nên họ không cho
làm. Tôi xin cả chục phòng thí nghiệm nhưng người ta từ chối hết. Nhưng tôi xem
đó là động lực để tôi cố gắng hơn mà thôi. Tôi không bỏ cuộc dễ dàng.
Sau
khi tốt nghiệp năm 1997, tôi nộp đơn học cao học. Xong cao học thì tôi học luôn
tiến sỹ và ra trường năm 2001, sau 10 năm đặt chân tới Mỹ với vài chữ tiếng
Anh. Sau đó, tôi làm tu nghiệp ở Trường Đại học Columbia ở New York và hợp tác
với đồng nghiệp ở IBM.
Năm
2004, tôi xin về làm việc ở Đại học California ở Santa Barbara (UCSB) và ở đây
tôi gặp khó khăn trong sự nghiệp rất nhiều, nhiều lần khóc và muốn bỏ cuộc. Tôi
phải đối mặt với sự kỳ thị chủng tộc, bị bắt nạt bởi những đồng nghiệp nam lớn
tuổi hơn, và người Mỹ trắng.
Đằng
sau sự thành công này có rất nhiều nước mắt nhưng “có công mài sắc có ngày nên
kim”.
VOA: Xin
chân thành cảm ơn GS.TS. Thục Quyên.
No comments:
Post a Comment