Các
vấn đề cốt lõi để hiện thực hóa nhân quyền
Phạm
Phú Khải và Trần Kiều Ngọc
08/12/2021
https://www.voatiengviet.com/a/hien-thuc-hoa-nhan-quyen/6338620.html
https://gdb.voanews.com/A2F852FB-4BD2-40BC-8ED8-90C32FACB46E_cx0_cy3_cw0_w1023_r1_s.png
Hôm 19/06, tổ chức
Theo dõi Nhân quyền (HRW) lên tiếng tố cáo Việt Nam gia tăng đàn áp những người
bất đồng chính kiến trước thềm đại hội Đảng 13. Hình minh họa. Photo HRW
Dẫn nhập: Tình trạng xâm phạm nhân
quyền tại Việt Nam trong những năm qua vẫn tồi tệ. Tuy biết rõ chính quyền này
không hề tôn trọng nhân quyền, điển hình là qua các báo nhân quyền của mình và
của các cơ quan nhân quyền quốc tế, các nước như Mỹ, Úc, Anh, v.v… vẫn tiếp tục
hợp tác với Việt Nam về kinh tế và nhiều mặt khác. Tính cách địa chính trị,
trong đó đặt nặng quyền lợi quốc gia, vẫn là ưu tiên chiến lược của mọi quốc
gia, dù là dân chủ hay độc tài. Trong khi đó, người Việt quan tâm về tình hình
đất nước, trong lẫn ngoài nước, phần lớn vẫn coi nhân quyền là phương tiện cho
mục tiêu đấu tranh chính trị, thay vì coi nó là mục tiêu sau cùng. Nói khác đi,
mọi hoạt động chính trị chỉ nên là phương tiện để giúp con người đạt được những
giá trị cao cả nhất để có thể sống có nhân phẩm. Trong đó quyền sống, tự do, và
điều kiện tốt nhất để đạt được hạnh phúc và ước mơ của mỗi người mới là mục
đích tối hậu.
Nếu không có tư tưởng định hình nhân quyền và
cách sống để bảo vệ, phát huy và lan tỏa nhân quyền thì làm sao, và khi nào, mới
có được nhân quyền?
Bài viết này nhằm chia sẻ mối quan tâm sâu xa
này với hy vọng một ngày nào đó, người Việt Nam xem nhân quyền là mục đích sau
cùng, và mọi thứ khác chỉ là phương tiện trong tiến trình đạt được mục đích đó.
***
Trong khóa học nhân quyền cách đây hai tháng,
và các khóa trước cách đây một năm rưỡi, chúng tôi thường gặp những câu hỏi và
những mong đợi, mà thú thật đã làm cho chúng tôi không khỏi lo âu. Những nhận định
về nhân quyền của một số người Việt thường thấy trên mạng xã hội cũng xoay
quanh các điều này.
Xin được tóm gọn vào ba câu hỏi/vấn đề chính
sau đây. Một, những báo cáo về nhân quyền có giá trị thật sự nào không khi tình
trạng nhân quyền tại Việt Nam, chẳng hạn, vẫn cứ tồi tệ và vi phạm vẫn tiếp diễn
thường xuyên? Hai, tại sao chính quyền Việt Nam ký kết vào bao nhiêu tuyên ngôn
nhân quyền và công ước quốc tế, và thế giới thừa biết họ vi phạm, nhưng cũng
không thay đổi gì đáng kể cả? Ba, tại sao các tổ chức nhân quyền quốc tế chỉ dừng
lại ở chỗ báo cáo, chỉ có giá trị mang tính biểu kiến, chứ không đi xa hơn,
không tạo được áp lực để thay đổi chế độ tại Việt Nam?
Trước khi bàn về các vấn đề nêu trên, chúng
tôi cũng xin chia sẻ thêm rằng, trong các khóa học này, chúng tôi đã tạo cơ hội
để mọi người tích cực tìm hiểu về các tổ chức tranh đấu cho quyền làm người
trên thế giới. Điển hình nhất là các tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty
International), Quan sát Nhân quyền (Human
Rights Watch), Nhà Tự do (Freedom
House), và Văn phòng
Cao ủy Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc (United Nations Human Rights –
Office of the High Commission).
Xin được bắt đầu với câu hỏi số 3 trước.
Nhưng để trả lời rốt ráo câu hỏi khá phức tạp
này, điều quan trọng là mọi người cần tìm hiểu kỹ hệ thống chính trị của quốc
gia và quốc tế hiện nay, và luật quốc tế ràng buộc cung cách hành xử của mỗi quốc
gia, đối với các vấn đề đối nội lẫn đối ngoại. Kế đến, chúng ta cần tìm hiểu thật
kỹ các hoạt động nhân quyền của các tổ chức nói trên trước khi đi đến nhận định
hay kết luận nào. Sau đó phải đặt câu hỏi: liệu những gì chúng ta đang mong đợi
có thực tế không, và tại sao chúng ta cứ trông mong nước ngoài giải quyết các vấn
đề của người Việt Nam?
Trước hết, xin được nói sơ qua về bản chất
chính trị quốc tế, thường được ví như là tình trạng vô chính phủ. Tuy kiến thức
này khá phổ biến, nhưng không hẳn ai cũng biết, do đó xin được chia sẻ ở đây. Hệ
thống, và trật tự thế giới hiện nay, là kết quả của gần 400 năm qua bao nhiêu
chiến tranh trong và giữa các quốc gia với nhau, và có khi ở tầm quốc tế. Qua
bao nhiêu chiến tranh xung đột và máu đổ xương rơi, Hiệp ước Westphalia năm
1648, và Hiến chương Liên Hiệp Quốc kể từ năm 1945, đã trở thành khuôn
khổ quốc tế mà các tiêu chuẩn về chủ quyền (sovereignty) và không
can thiệp nội bộ nước khác (non-intervention) trở thành nguyên tắc
hành xử chung. Tuy đây là hai nguyên tắc quan trọng định hình cung cách mỗi nhà
nước (state), có những điều luật quốc tế khác cho phép can thiệp vào chuyện nội
bộ trong trường hợp đặc biệt, nhất là liên quan đến khủng hoảng nhân đạo. Rút
kinh nghiệm từ nạn diệt chủng người Do Thái của Đức Quốc Xã trong Thế Chiến II,
Đại Hội đồng LHQ đã thông qua Công ước Ngăn
ngừa và Trừng phạt Tội ác Diệt chủng (Convention on the Prevention and
Punishment of the Crime of Genocide) vào ngày 9 tháng 12 năm 1948, một ngày trước
Tuyên ngôn Nhân quyền Phổ quát ra đời. Nhưng hơn bốn thập niên sau, mãi đến đầu
1990s, Công ước Diệt Chủng này mới được áp dụng lần đầu tiên vào năm 1994 với tội
diệt chủng tại Rwanda, và sau đó tại Balkan ở nước Nam Tư cũ. Nhưng khi áp dụng
thì đã quá trễ, vì cả triệu người tại Rwanda, nhất là phụ nữ và trẻ em, đã bị
giết hại. Vì thế mà cựu Tổng Thư ký LHQ Kofi Annan từng đặt câu hỏi, mà cho đến
nay vẫn chưa có giải pháp thỏa mãn nào: “Khi nào thì cộng đồng quốc tế can thiệp
vì mục tiêu bảo vệ công chúng?”
Trở lại vấn đề nêu trên, muốn can thiệp vào nội
bộ một nước khác, nó cần có những lý do và bằng chứng hẳn hoi. Chủ quyền một quốc
gia mang tính tối trọng để tránh trường hợp một quốc gia khác xâm chiếm, như đã
từng xảy ra dễ dàng trong suốt chiều dài lịch sử, kiểu cá lớn nuốt cá bé. Hoa Kỳ
đã bị mất uy tín rất nhiều sau khi xâm chiếm Iraq năm 2013 vì
biện minh rằng Iraq đã có vũ khí hủy diệt hàng loạt, nhưng sau khi tấn công thì
đã không tìm thấy. Do đó, cuộc chiến tại Iraq cho đến nay vẫn bị xem là cuộc chiến phi
pháp. Trong khi đó, việc Trung Quốc đối xử tàn tệ đối với người Duy Ngô
Nhĩ, đưa hơn một triệu người vào các trại tập trung tại Tân Cương, được Hoa Kỳ
và nhiều quốc gia khác xem là tội diệt chủng. Tuy thế, khi đụng đến các cường
quốc có vũ khí hạt nhân và quân đội hùng mạnh, như Nga hay Trung Quốc, thì có mấy
quốc gia có đủ khả năng và lại sẵn sàng đưa quân đội của mình vào để chiến đấu
vì lý do muốn bảo vệ nhân quyền cho người dân nước khác?
Luật quốc tế là một chuyện, bắt buộc các nước
khác tuân thủ, tôn trọng là chuyện khác. Lực lượng quân sự của LHQ là sự đóng
góp từ các quốc gia thành viên, mà vai trò chủ yếu là để bảo vệ hòa bình, không
phải để tham chiến. Chỉ có mỗi Hoa Kỳ, cho đến nay, là quốc gia duy nhất có khả
năng làm “cảnh sát” trên bình diện toàn cầu. Nhưng ngay cả thế, sức mạnh của
quân đội Hoa Kỳ có giới hạn, và nó được trải mỏng khắp thế giới.
Tất cả các yếu tố nêu trên, và còn nhiều
nguyên do khác chưa đề cập, chỉ nói lên một điều: trật tự và hệ thống chính trị
quốc tế trước đây, và hiện nay, có những giới hạn và ràng buộc của nó. Nó chưa
hề hoàn hảo, và sẽ không bao giờ hoàn hảo. Nhưng nó đã có những đóng góp đáng kể
trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt trong hơn bảy thập niên qua. Tuy thế,
không nên mong đợi nó có thể làm hơn những gì nằm ngoài sứ mệnh và khả năng thực
sự của nó.
Sau cùng, điều thực tế cần ghi nhận là không
có một lực lượng chính trị, an ninh hay cảnh sát nào có thể giải quyết được các
vấn nạn tội phạm của con người, trên bình diện quốc gia hay quốc tế. Bản chất
“tham, sân, si” của con người diễn ra trong mọi thời đại, ngay cả khi vật chất
đang có là thịnh vượng nhất trong thời điểm hiện nay.
Thế thì tại sao Hoa Kỳ và một số quốc gia dân
chủ muốn góp phần bảo vệ nhân quyền trên thế giới? Nguyên lý căn bản là vì khi
đa số người dân ý thức và biết tôn trọng nhân quyền thì sự giải quyết xung đột
thường xảy ra trong ôn hòa, trên tinh thần thượng tôn quyền sống và luật pháp,
thay vì chà đạp lên nhau rồi leo thang dẫn đến chiến tranh. Xung đột và chiến
tranh tại một nơi có nguy cơ lan rộng đến vùng và toàn cầu, một hệ quả mà không
ai muốn.
Ngoài lĩnh vực nhà nước, các tổ chức nhân quyền
và phi chính phủ cũng đóng vai trò vô cùng tích cực trên bình diện quốc tế. Tuy
nhiên, tình hình thực tế cho thấy các tổ chức như AI, HRW, OHCHR v.v… không có
đủ nguồn lực, phương tiện hay “dụng cụ/vũ khí” để tạo ra những thay đổi về thể
chế hay chính trị. Trên hết, nó không phải là vai trò và trách nhiệm của họ.
Nhiệm vụ của các tổ chức nhân quyền là điều tra, nghiên cứu, và báo cáo xác thực
tình trạng nhân quyền tại những quốc gia mình có thể hoạt động. Một số các tổ
chức này sẽ tìm cách gia tăng ý thức và tinh thần trách nhiệm của người dân tại
nơi đó, và vận động công chúng cùng tham gia các chiến dịch bảo vệ và phát huy
nhân quyền, như AI. Ngoài ra, AI, HRW và FH, chẳng hạn, sẽ đưa ra các đệ trình,
khuyến nghị đối với Hoa Kỳ, với các cộng đồng quốc tế, cũng như cảnh báo các vi
phạm nhân quyền, để cùng nhau tạo ra những thay đổi luật, chính sách và biện
pháp hầu cải thiện, để những vi phạm như thế không xảy ra nữa.
Trong thời gian qua, một trong những điều
chúng tôi không thể hiểu được là nhiều người Việt thường hay phê bình chỉ trích
nặng nề các tổ chức nhân quyền như AI, HRW, FH, OHRHR v.v… Nhiều người coi thường
và gạt bỏ những nỗ lực và thành tựu đáng kể của các tổ chức này. Một số luận điệu
cho thấy họ nói vì muốn bênh vực chế độ cầm quyền tại Việt Nam hiện nay. Nhưng
đồng thời những người chống chế độ cũng phê phán các tổ chức này. Khi hỏi thêm
là họ biết gì về hoạt động của các tổ chức này, có hiểu cách các tổ chức này
nghiên cứu và báo cáo nhân quyền ra sao không, và có bao giờ lên các website đó
để tìm đọc tin tức, tường trình, nghiên cứu và báo cáo định kỳ hay đặc biệt của
các tổ chức này không, thì 9 trên 10 người trả lời hoàn toàn không. Dường như đại
đa số phán xét nhưng không dựa vào dữ kiện gì cả. Trong khi đó, các tổ chức này
không chỉ điều nghiên nhân quyền tại Việt Nam mà còn trên 190 quốc gia trên
toàn thế giới, kể cả các nền dân chủ hàng đầu. Họ đã lên tiếng kịp thời về những
vấn đề vi phạm nhân quyền nghiêm trọng tại mỗi quốc gia, như tại châu Á thì họ
luôn lên tiếng về tình hình tại Thái Lan, Miến Điện, Bangladesh, Hồng Kông, Tây
Tạng, Tân Cương, Việt Nam, Mã Lai, Nam Dương v.v… Vì vậy, khi tìm hiểu đầy đủ
và đúng đắn, chúng ta sẽ nhìn ra được tầm vóc hoạt động sâu rộng của các tổ chức
này, những khuyến cáo thực tiễn về vi phạm nhân quyền hầu cộng đồng quốc tế
cùng biết, và những áp lực đáng kể lên các nhà nước này. Chúng ta đều biết rằng
tất cả các chế độ vi phạm nhân quyền, mà phần lớn là độc tài, cộng sản và phi
dân chủ, hoàn toàn không muốn bị cộng đồng thế giới biết đến hay lên tiếng phê
phán các vi phạm của họ.
Về câu hỏi số 2, thì
Việt Nam quả là một quốc gia ký kết rất sớm hầu như tất cả các công ước
quốc tế quan yếu về nhân quyền. Chỉ có một số nhỏ thì Việt Nam vẫn
chưa ký kết, như Công ước về Người Tị nạn, Quyền Lao động, Quyền Lập hội v.v...
Ngay cả Công ước Chống lại Tra tấn và các Hình thức Đối xử hoặc Trừng phạt Tàn
ác, Vô Nhân đạo hoặc Hạ nhục Người Khác, gọi tắt là CAT, thì Việt Nam cũng đã
ký kết vào ngày 7 tháng 11 năm 2013. Tuy thế, ai cũng biết các hành động tra tấn
thô bạo đối với người dân do các lực lượng an ninh và công an Việt Nam thi hành
là điều xảy ra thường xuyên và mang tính hệ thống. Gần đây nhất là trường hợp xảy
ra cho cô Phạm Đoan Trang, hay đối với cụ Lê Đình Kình và gia đình cụ.
Tại sao chính quyền Việt Nam vẫn ký
vào nhưng không tuân thủ, tôn trọng, thi hành?
Theo chúng tôi, đó là vì nhiều lý do khác
nhau, nhưng đáng kể nhất là: một, về nhu cầu văn minh, hội nhập; hai, vì quyền
lợi thực tiễn như kinh tế, giao thương v.v…; ba, dù biết mình sẽ vẫn vi phạm,
nhưng vì họ biết cách để không bị trừng phạt.
Một, sau thời kỳ bế quan tỏa
cảng từ năm 1975 đến 1986, xem mình là đỉnh cao trí tuệ, nhưng thực tế thì cả
nước nghèo nàn lạc hậu đến độ không thể đáp ứng những nhu cầu căn bản nhất về
cái ăn cái mặc, nhà nước Việt Nam quyết định đi theo con đường đổi mới, hội nhập
với cộng đồng quốc tế. Do đó họ cần chứng minh với thế giới rằng họ cũng là một
thành viên văn minh và biết hội nhập không khác ai, nhất là biết tôn trọng nhân
quyền. Chẳng hạn, trong bản báo
cáo của OHCHR vào ngày 12 tháng 3 năm 2019, Việt Nam cho biết họ đã
tôn trọng Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), bằng cách tu
chính hiến pháp và hàng trăm bộ luật khác nhau, được sửa đổi hoặc lập nên cái mới,
để đề cao và bảo vệ các quyền và tự do của người dân. Phái đoàn Việt Nam trước
nay luôn báo cáo tích cực về mọi thành quả của mình, mặc dầu thực tế thì không
hẳn vậy.
Hai, ký vào các công ước, quy
định, công cụ về nhân quyền không chỉ thể hiện “văn minh” mà còn mang tính cách
thực tiễn, nhất là về kinh tế và thương mại. Để bang giao với các nước khác, nhất
là các nền dân chủ, đặc biệt về giao thương, thì thường có các điều kiện nhân
quyền, như các quyền công nhân/lao động, quyền trẻ em, phụ nữ, khuyết tật v.v…
đi kèm. Việt Nam, cũng như bao nước khác, cần hội nhập và phát triển sau một thời
gian dài tự mê. Vì vậy nhà nước Việt Nam cần sửa đổi luật liên quan đến nhân
quyền, không phải vì muốn làm một cách rốt ráo do sự tin tưởng thật sự, mà vì
muốn được chấp nhận vào cộng đồng quốc tế. Cũng vì thế mà họ lại làm như chiếu
lệ. Họ chỉ muốn đạt được mức tối thiểu cần thiết để tránh bị phê phán nặng nề.
Ba, như trong phần trả lời
câu số 3 ở trên, hệ thống chính trị quốc tế cùng lắm thì chỉ khuyến cáo, chứ
không làm gì được đáng kể đối với các nhà nước vi phạm nhân quyền, trừ phi nó tệ
hại đến độ cấu thành tội diệt chủng, chẳng hạn. Nhưng ngay cả khi cấu thành tội
diệt chủng, như Trung Quốc đối với người Duy Ngô Nhĩ hiện nay, thì cách giải
quyết vẫn còn khá phức tạp. Nói cách khác, hệ thống chính trị quốc tế mang tính
vô chính phủ, không có quân đội hay cảnh sát để áp dụng thi hành các luật và
công ước quốc tế, nên không có khả năng buộc các quốc gia thành viên tuân thủ
chấp hành. Tình nguyện, tự giác mới là yếu tố căn bản. Cũng vì thế nên Việt Nam
thoải mái ký kết mà không lo mất mát gì. Nhà nước Việt Nam biết rõ rằng chỉ cần
nắm thật chặt truyền thông chính mạch, bưng bít mọi thông tin nào nói lên tình
trạng vi phạm nhân quyền có hệ thống của họ, và mồm mép chối cãi mọi hành vi vi
phạm nhân quyền, thì các cơ chế hay quốc gia khác khó thể nào kết tội Việt Nam
được. Đó là cách Việt Nam đối phó với mọi sự phê bình về nhân quyền cho đến
nay, và phần nào đó thành công.
Mới đây đương kim Thủ tướng Phạm Minh Chính,
trong chuyến viếng thăm Nhật vừa qua, quả quyết rằng ông sẽ cải thiện nhân quyền
để thu hút đầu tư, theo báo cáo của tờ Nikkei
Asia tại Nhật vào ngày 25 tháng 11. Phát biểu này nói lên được rất nhiều
về tư duy của giới lãnh đạo Việt Nam trước và nay về chủ trương của họ đối với
nhân quyền, như có trình bày ở trên.
Tất nhiên thế giới thừa biết sự vi phạm nhân
quyền của Việt Nam, như đã thấy qua các tin tức và báo cáo thường niên của AI,
HRW, FH, hay của các chính quyền dân chủ và của Liên Hiệp Quốc. Nhưng thế giới
chấp nhận nhắm mắt làm ngơ vì tương quan quyền lợi về kinh tế/thương mại, vì lý
do địa chính trị. Trên hết, vì những gì họ có thể làm để buộc Việt Nam tuân thủ
thật ra cũng khá giới hạn.
Chẳng hạn, trong bản báo cáo nói trên, OHCHR
khuyến cáo rằng Việt Nam thường sử dụng lý do an ninh và trật tự xã hội để giới
hạn các quyền của các nhà hoạt động nhân quyền, các nhóm nhỏ, và tất cả những
ai chống đối Đảng Cộng Sản Việt Nam. Quan niệm về an ninh quốc gia quá rộng, và
cách diễn giải và áp dụng luật thì khá tùy tiện. Ngành tư pháp thì không độc lập,
trong khi các chánh án thì được ĐCSVN bổ nhiệm dựa trên sự trung thành của họ.
Các đạo luật về tôn giáo thì được thiết kế để giới hạn quyền tự do tôn giáo,
trong khi luật về báo chí/truyền thông thì cấm phê bình nhà nước hay báo cáo
các vấn đề nhạy cảm. Đề nghị của OHCHR là “Việt Nam cần tiếp tục giải quyết các
vấn đề như quyền trẻ em, độc lập tư pháp, án tử hình và cáo buộc tra tấn trong
trại giam.” Họ đề nghị nhưng Việt Nam muốn làm hay không thì nó nằm ngoài tầm
tay, công việc hay trách nhiệm của họ.
Tóm lại, cộng đồng quốc tế thừa biết, và có
khi còn biết rất rõ, tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, nhưng phần còn lại là
tùy thuộc vào nhà nước và người dân Việt Nam.
Sau cùng là đến lượt câu hỏi số 1: các báo cáo
nhân quyền có giá trị nào không, vì nếu có thì tại sao sự vi phạm nhân quyền cứ
tiếp diễn?
Ở đây có nhiều điều cần mổ xẻ, phân tích cặn kẽ,
nhưng chúng tôi cũng không thể đi quá sâu trong khuôn khổ của bài viết này.
Thứ nhất, mọi báo cáo, nhân quyền hay về bất cứ
lĩnh vực nào, nếu được thực hiện một cách đứng đắn, khách quan, khoa học, thì luôn
có giá trị đích thực của nó. Không ai có thể làm tốt, và tốt hơn nữa, nếu dựa
trên báo cáo dở hay dối; và ngược lại, không ai có thể làm báo cáo tốt, và tốt
hơn nữa, nếu dựa trên việc làm dở hay dối. Việt Nam là một trong các quốc gia
ngoại lệ. Việt Nam làm dở nhưng luôn báo cáo tốt, trong mọi vấn đề. Bệnh thành
tích ăn sâu vào tâm khảm của họ. Cho nên khi nào vẫn còn văn hóa này thì Việt
Nam không thể tiến bộ đích thực được.
Các báo cáo nhân quyền của AI, HRW, FH, OHCHR
v.v… đều dựa trên cơ sở bằng chứng và lập luận vững chắc, từ hồ sơ dữ liệu của
nhiều thập niên qua, và từ sự quan sát, nghiên cứu tường tận, cũng như đối chiếu,
kiểm chứng mọi thông tin và dữ kiện trước khi phổ biến nó. Tất nhiên nó không
hoàn toàn đầy đủ, hay hoàn toàn chính xác, vì các yếu tố khách quan. Nhưng sự
phân tích và phê bình của các báo cáo này thường dựa trên các luật pháp, hiến
pháp tại Việt Nam và các công ước quốc tế mà Việt Nam ký kết. Các hồ sơ báo cáo
này có giá trị rất cao qua thời gian. Chúng ta đều biết nhà nước Việt Nam muốn
xóa bỏ, hay bóp méo, những phần lịch sử nào gây bất lợi cho họ, dù đó là sự thật.
Cho nên những sự vi phạm nhân quyền của họ trong suốt 46 năm qua, và trước đó,
cũng như trong tương lai, cần được ghi nhận và lưu trữ trên tinh thần nghiêm
minh. Những đóng góp từ các tổ chức nhân quyền quốc tế, và bởi chính người Việt
Nam, sẽ có giá trị giúp cho người Việt Nam hôm nay và các thế hệ sau này hiểu
chính xác và đầy đủ vấn đề. Không có những dữ kiện lịch sử dựa trên sự thật và
không có các bài học rút ra được từ đây, nó sẽ là một cái kết bi thảm của dân tộc.
Không hiểu được những chấn thương của tiền nhân, những tương tranh nồi da xáo
thịt, thì lịch sử lập lại là lẽ đương nhiên. Như đã thấy trong lịch sử cận đại
và hiện đại của Việt Nam.
Sự vi phạm nhân quyền vẫn tiếp diễn vì vì quyền
lực và chính trị của chế độ cầm quyền là trên hết, và vì trong tư duy họ không
hề có. Nhưng phần khác, vì người dân chưa có được cơ hội để học hỏi và phát huy
quyền làm người của mình.
Trong khi đó, ở các nước dân chủ, chính quyền
không hành động thì sẽ bị người dân phê phán. Cạnh tranh, như thế, là phương
cách tốt nhất để loại trừ những chính quyền không tôn trọng hay thực thi nhân
quyền. Hoặc có, nhưng làm không hiệu quả. Vì lý do này, dù cho người dân hay
các tổ chức nhân quyền chưa hay không áp lực, chính quyền vẫn thấy có nhu cầu
đi đầu để thể hiện tinh thần thượng tôn nhân quyền của mình. Tóm lại, họ không
cần đến việc khuyến cáo của các tổ chức nhân quyền hay của LHQ, bởi sự vận hành
của xã hội và ý chí lẫn ý thức của người dân mới là yếu tố quyết định.
Vài lời kết
Chúng tôi hy vọng, qua những gì trình bày
trên, giải đáp phần nào các thắc mắc và quan tâm của một số người về tình hình
nhân quyền tại Việt Nam.
Chúng tôi xin chia sẻ thêm ba điều mà chúng
tôi đặc biệt quan tâm trước khi hết lời.
Một, sự can thiệp của quốc tế
vào Việt nam, hay một quốc gia nào đó, nếu có, cũng chỉ mang tính cách hỗ trợ
và tạm thời. Nó không giải quyết được tận gốc sự xâm phạm thô bạo của chính quyền
vào người dân, và giữa người dân với nhau. Ngay cả khi Hoa Kỳ, hay một nước
hùng mạnh nào đó xâm chiếm Việt Nam, lật đổ chế độ hiện nay và thay thế một chế
độ dân chủ hơn, thì tình trạng nhân quyền có thể nhờ đó mà cải thiện, nhưng sự
vi phạm chắc chắn sẽ tiếp diễn. Chỉ khi nào người dân hiểu được rằng, để chung
sống hài hòa thì không thể đối xử tồi tệ với nhau. Cách giải quyết vấn đề bằng
bạo lực, đe dọa hay sợ hãi là đã vi phạm nhân quyền ngay từ căn bản. Chỉ khi
nào người dân hiểu được các quyền của mình không phải do nhà nước/chính quyền ban
bố mà đó là quyền đương nhiên và thuộc về họ, và chính họ tin tưởng, khẳng định,
quyết tâm và hành xử như mình sở hữu, thì lúc đó, không một ai có thể tước đoạt
được quyền của họ.
Hai, ngay cả khi được quốc tế
can thiệp, hay chính quyền bị thay đổi, như đã và đang diễn ra tại châu Phi như
Sudan, Ethiopia, Rwanda, Nigeria, Congo (Democratic Republic) v.v… thì chính
quyền khác lên vẫn cứ tiếp tục chà đạp nhân quyền. Tình trạng nhân quyền
Rwanda, sau khi giết hại cả triệu người và được thế giới can thiệp, thì đã được
cải thiện. Nhưng các bản báo cáo nhân quyền năm 2020 của Bộ
Ngoại giao Mỹ về Rwanda, hay từ AI, HRW, FH v.v… đều cho thấy
tình trạng tra tấn, đối xử tồi tệ với những người bất đồng chính kiến, tự do
ngôn luận và truyền thông v.v… vẫn bị xâm phạm nghiêm trọng. Gần đây, có những
báo cáo nhân quyền từ HRW, AI v.v… cho thấy tình trạng xâm
phạm nhân quyền trầm trọng tại Rwanda, được ví như nạn diệt chủng lần
thứ hai, đang
xảy ra tại nước này.
Tóm lại, khi sự đối xử của chính quyền đối với
thành phần đối lập mang tính thù nghịch và thô bạo, thì khi phía đối lập có cơ
hội lên nắm quyền, họ tiếp tục đối xử thù nghịch và thô bạo dành cho đối lập.
Khi đã coi nhau thù nghịch thì triệt hạ hay tiêu diệt nhau là điều khó tránh.
Đây là tâm lý và bản chất chung của các chính thể độc tài, cộng sản, phi dân chủ.
Cho nên sự xâm phạm nhân quyền tại những nơi này thường xảy ra, và không có cơ
hội cải thiện đáng kể. Cái vòng luẩn quẩn này sẽ không thể dứt được, cho đến
khi mọi bên đều công nhận rằng, điều hành lãnh đạo đất nước là một cuộc thi đua
công bằng và bình đẳng dựa trên khả năng, tài cán và viễn kiến của tất cả các
bên tham dự.
Tóm lại, văn hóa đối xử văn minh và tôn trọng
nhau, tôn trọng khác biệt chính kiến, v.v… mang yếu tố quyết định về tình trạng
nhân quyền của nước đó về lâu dài, thay vì áp lực từ nước ngoài. Khả năng thay
đổi chính quyền bằng bạo lực lại càng không hề giải quyết được nhân quyền ở tận
gốc.
Ba, nhân quyền đến từ chính
nội tâm nội lực của mỗi chúng ta, không phải từ chính quyền hay bất cứ ai khác.
Tất nhiên, nhà nước gồm tư pháp, hành pháp, và lập pháp, đều có khả năng làm ra
luật, thi hành luật và diễn giải luật, để tôn trọng hay xâm phạm, nhân quyền của
người khác. Nên nhớ, mọi nhà nước trên thế giới này đã phê chuẩn ít nhất một
trong chín công
ước quan yếu về nhân quyền, có nghĩa rằng, chính họ phải có ràng buộc và
trách nhiệm dưới luật quốc tế để tôn trọng,
bảo vệ và hoàn thành (respect, protect and fulfil) sứ mệnh cam kết
nhân quyền của mình, để nhân quyền được mọi người trên khắp thế giới thụ hưởng.
Nhưng điều quan trọng về nhân quyền là khi người dân ý thức được rằng quyền con
người không phải do bất cứ chính quyền nào có thể ban phát, mà nó luôn sẵn có
trong mỗi chúng ta, bởi vì chúng ta là con người, bất kể màu da, tôn giáo, sắc
tộc, phái tính, tuổi tác, quốc tịch v.v… Khi có được tư duy đó, và khi niềm tin
về nhân quyền vững chắc như một thứ niềm tin tôn giáo, thì không ai và không
chính quyền nào có thể lấy đi được các quyền làm người của người Việt Nam hay
khắp nơi.
Còn khi phần lớn người Việt chỉ mong muốn người
khác đấu tranh cho quyền làm người của mình thay vì chính họ phải tham gia đấu
tranh, thì không ai giúp được họ. Nếu phần lớn người Việt có tinh thần vọng ngoại,
chỉ trông cậy vào thế lực ngoại bang, kể cả Mỹ, để giải quyết bài toán của
mình, thì đến bao giờ mới có được dân chủ, nhân quyền?
Chủ trương hướng ngoại, ỷ lại hay trông cậy
vào người khác, mà không hướng nội, trông vào chính mình, đặt trách nhiệm lên
vai trò và sứ mệnh của mình, thì mọi giải pháp chỉ mang tính tạm bợ, nhất thời.
Tất cả chỉ giải quyết cái ngọn, không phải cái gốc vấn đề. Chúng ta nhìn thấy
bao nhiêu hiện tượng như thế đang đầy dẫy trong cuộc sống con người hôm nay.
Vì những lý do đó, các tổ chức như AI, HRW,
FH, Liên Hiệp Quốc, v.v… cũng không thể nào cải thiện được nhân quyền tại Việt
Nam nếu như người Việt không chủ động góp phần vào sự thay đổi đó. Khi người
dân vẫn không hiểu rõ quyền và tự do của mình, không mạnh dạn đứng lên để bảo vệ,
và không phát huy tinh thần và giá trị nhân quyền, thì quyền và tự do cũng chỉ
có trên văn bản. Dù có trong hiến pháp và pháp luật Việt Nam đi nữa, nhân quyền
không hề được tôn trọng trên thực tế.
Người dân Việt Nam, hay bất cứ dân tộc nào, chỉ
thật sự sở hữu các quyền làm người và các quyền tự do của mình khi chính nó nằm
trong triết lý sống, trong hơi thở và hành động của họ mỗi ngày. Nếu không, thì
dù thể chế có thay đổi sang dân chủ đi nữa, quyền lực cũng chỉ tập trung vào một
thiểu số cá nhân, phe phái, bè nhóm, đảng phái, v.v… thay vì người dân.
Vì thế, tuy vận động quốc tế áp lực chế độ hiện
nay về nhân quyền là cần thiết, hay vận động để chế độ cai trị hiện nay thay đổi
và tôn trọng nhân quyền hơn, tất cả cũng chỉ là phương tiện thôi. Thật ra, tất
cả những gì người khác làm, hay nước khác làm, để giúp nhân quyền Việt Nam cải
thiện, thì cũng chỉ là phương tiện. Mục đích sau cùng là mỗi một người, mỗi một
công dân, tại Việt Nam hiểu rõ quyền hạn, vai trò và trách nhiệm của chính
mình, để trở thành những công dân tự tin, tự trọng, quyết đoán và mạnh mẽ, hầu
có thể tự bảo vệ lấy mình.
Nói cho cùng, tình yêu thương chân thực và sâu
đậm nhất của chúng ta với người khác là giúp trang bị cho họ có khả năng, độc lập,
và vững tin để họ tự do mưu cầu hạnh phúc và để được sống trong nhân phẩm. Chứ
không phải để lệ thuộc hay phụ thuộc mình, để mình có quyền trên họ. Tình yêu
thương đích thực là giúp người khác hoàn thành được giấc mơ của họ. Set them
free. Khi đó nhân quyền của họ mới có thể được hiện thực, và trọn vẹn.
Phạm
Phú Khải và Trần Kiều Ngọc
Úc châu, 01/12/2021
=====================
LIÊN QUAN
Nhân
quyền: Làm sao để có và để không bị mất?
HRW kêu gọi Úc thúc Việt Nam
tôn trọng nhân quyền
No comments:
Post a Comment