Nhân
kỷ niệm 75 năm ngày hai quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima và Nagasaki,
Nhật Bản
Yoko
Ogawa - New York Times
Dịch giả: T.Vấn
07/08/2020
Lời người dịch: Hôm 6 tháng 8 năm 2020, thế giới kỷ niệm lần thứ 75 ngày hai quả bom
nguyên tử được ném xuống hai thành phố lớn của Nhật bản: Hiroshima và Nagasaki.
Tưởng không cần phải nhắc lại những thiệt hại về người, của và tinh thần người
dân Nhật Bản và những hệ quả tai hại khôn lường từ 75 năm qua. Điều cần nói đến
là sự quên lãng của nhân lọai về một tai họa nhãn tiền, một tai họa đã xảy ra
cách đây 75 năm, nhưng cũng có thể xẩy ra lần nữa vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ
nơi đâu.
Sự quên lãng vốn là điều
không thể tránh khỏi của con người. Nhưng quên lãng đi những nguyên nhân gây
nên những cái chết tập thể, chết lần chết mòn vì nhiễm thể, vì môi trường sống
chung quanh bị hủy họai, lại là một thái độ vô trách nhiệm với chính mình, với
đồng lọai, với các thế hệ mai sau.
Một cuộc khảo sát mới đây
của hãng truyền thông quốc gia Nhật Bản NHK (Nippon Hoso Kyokai -Japan
Broadcasting Corporation) cho biết, chỉ có 30% dân số Nhật Bản nhớ được chính
xác ngày, tháng và năm quả bom nguyên tử được ném xuống thành phố Hiroshima. Đó
là một báo động đỏ cho những người còn quan tâm đến sự sinh tồn chung của nhân
lọai.
Đã đành, 75 năm là một
quãng thời gian không phải ngắn nhưng mỗi năm, cứ đến ngày đầu tháng 8 là những
nạn nhân còn sống sót của vụ nổ hai quả bom nguyên tử lại rủ nhau về tụ họp ở
thành phố Hiroshima, nơi tọa lạc của viện bảo tàng tưởng niệm hòa bình
Hiroshima để cùng nhau nhớ đến hơn 200 ngàn nạn nhân đã thiệt mạng vì cuộc ném
bom và nỗi thống khổ của những người còn sống sót dù đã nhiều năm trôi qua.
75 năm qua là 75 lần người
ta được nhắc nhở. Và nhớ đến những thảm kịch quá khứ không phải chỉ để
ngồi khóc thương những người, những gì đã mất mà quan trọng hơn, nhớ để mỗi người
tự nỗ lực bằng cách riêng của mình không để cho thảm kịch xẩy ra thêm một lần nữa. Đó
là lý do chính cho con người chúng ta cần đến trí nhớ. Nhưng, buồn thay, như đã
nói, quên lãng là một thuộc tính của con người.
Vậy, làm cách nào để bù đắp
cho những quên lãng không thể tránh khỏi ấy?
Nhà văn Nhật bản Yoko
Ogawa, một tiếng nói nổi bật và mạnh mẽ trong văn đàn Nhật bản đương đại, tác
giả nhiều tác phẩm được quan tâm không chỉ ở Nhật bản, còn ở Pháp, Mỹ và nhiều
nước trên thế giới, đã đưa ra đề nghị của mình trong một bài viết được đăng tải
trên tạp chí The New York Times số đặc biệt tưởng niệm Hiroshima và
Nagasaki.
Yoko Ogawa tin rằng, bằng
văn chương, chúng ta sẽ lưu giữ được những ký ức cần thiết về hai quả bom
nguyên tử đã được ném xuống Nhật Bản tháng 8 năm 1945.
Liệu Yoko Ogawa có thuyết
phục được người đọc hay không, xin để mỗi người tự trả lời. Riêng người Việt
Nam chúng ta, sinh sống trong nước hay hải ngọai, rất cần tìm ra một phương
cách phù hợp để làm sao gìn giữ được trí nhớ, cho mình và cho các thế hệ tương
lai, về những gì đã xảy ra cho dân tộc, cho đất nước Việt Nam trong giai đọan lịch
sử độc nhất vô nhị của hơn 45 năm qua.
Xin mời quý độc giả cùng
theo dõi.
***
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/1-12.jpg
Thủ tướng Nhật Bản
Shinzo Abe cúi đầu trước đài tưởng niệm sau khi đọc bài diễn văn nhân kỷ niệm lần
thứ 75, tưởng nhớ các nạn nhân của vụ ném bom nguyên tử tại công viên tưởng niệm
Hòa Bình ở thành phố Hiroshima hôm thứ Năm 6-8-2020. Nguồn: Philip Fong/ AFP —
Getty Images
Bằng văn chương, chúng ta sẽ lưu giữ những ký ức về
hai quả bom nguyên tử đã được ném xuống Nhật Bản
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/1-13.jpg
Thành phố Hiroshima
(sau vụ ném bom khỏang chừng một hay hai tháng) nhìn từ phía Higi-Yama, một ngọn
đồi tọa lạc ở phía đông thành phố. Nguồn: Collection Japanese/Magnum
Chúng ta tìm đến văn chương như là một nơi chốn ẩn
náu mỗi khi phải đương đầu với những nghịch lý vượt quá tầm kiến giải của lý
trí con người.
Ngày 6/8/1945, một quả
bom nguyên tử được ném xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản. 3 ngày sau, 9/8, một
quả bom nguyên tử nữa được ném xuống thành phố Nagasaki. Ngày 15/8/1945, Nhật bản
tuyên bố đầu hàng.
Từ đó, ở Nhật Bản, tháng
8 hàng năm được coi là tháng để tưởng nhớ người chết.
Năm nay 2020, kỷ niệm lần
thứ 75 ngày ném hai quả bom nguyên tử, lẽ ra sẽ được tưởng niệm vào dịp khai mạc
Thế Vận Hội Tokyo 2020, nhưng vì dịch bệnh Covid-19 hiện đang hoành hành khắp
nơi, nên Thế Vận Hội Tokyo đã bị hoãn lại. Và chúng ta sẽ âm thầm lặng lẽ cầu
nguyện cho những người chết trong một không khí tĩnh lặng ít có ai mong đợi.
Tại Thế Vận Hội Tokyo
1964, người cầm đuốc thế vận chặng cuối cùng là một thanh niên vô danh 19 tuổi,
một vận động viên điền kinh tên Yoshirori Sakai. Anh sinh ra tại Hiroshima đúng
vào ngày thành phố bị ném bom. Hình ảnh người thanh niên, đơn giản trong trang
phục áo trắng, quần đùi trắng chạy từng bước trên bậc thang dẫn tới chỗ tọa lạc
của đài lửa thế vận mang một nét rất khác thường. Trong anh, người ta thấy toát
lên một vẻ thuần khiết, sự vững chãi và tính cách mạnh mẽ của tuổi trẻ.
Những người hiện diện
trong buổi lễ hẳn sẽ phải mang một cảm giác khó tả khi nhận ra rằng, cả thế giới
đang tụ họp về Nhật Bản để tham dự ngày lễ hội thể thao trọng đại chỉ mới 19
năm sau ngày đệ nhị thế chiến chấm dứt. Vậy mà giờ đây, ngay trước mặt họ, một
thanh niên sinh ra từ đổ nát hủy họai khủng khiếp chưa từng có tiền lệ trong lịch
sử, một sinh vật người ôm trong mình ngọn lửa của sự sống đang từng bước một tiến
lên đỉnh đài thế vận. Không một ai bận tâm than phiền đến ý đồ chính trị trong
việc lựa chọn người cuối cùng mang lửa thế vận, nhưng cũng không một ai không
nhận ra sức sống mãnh liệt tiềm ẩn trong hình ảnh chàng thanh niên đến từ thành
phố Hiroshima.
Đáng buồn thay, với thời
gian qua đi từ bấy đến nay, chúng ta đã thất bại trong việc hoàn thành giấc mơ
về một thế giới không còn bóng dáng vũ khí hạt nhân. Ngay đến ở Nhật Bản, những
hồi ức năm xưa, nay cũng đã ngày một phai mờ. Trong một cuộc khảo sát của hãng
truyền thông Nhật Bản NHK, chỉ có 69% cư dân Hiroshima và 50% cư dân Nagasaki
có thể nhớ được chính xác ngày, tháng, năm quả bom nguyên tử được ném xuống
thành phố Hiroshima. Trong khi đó, ở mức độ toàn quốc, con số phần trăm cũng chỉ
đạt tới 30. Những đám mây quên lãng ngày một dầy đặc hơn. Và sẽ đến lúc chúng
ta sẽ không còn được nghe trực tiếp từ những chứng nhân lịch sử còn sống sót kể
về những gì họ đã trải qua.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/1-14.jpg
Tâm điểm của quả
bom nguyên tử ném xuống trung tâm thành phố. Nơi đây, trước đó là nơi tọa lạc một
trại lính. Nguồn: Wayne Miller/Magnum
Chúng ta, những người may mắn không được chứng kiến
tận mắt những gì đã xảy ra – phải làm gì để gìn giữ ký ức của những người đã từng
sống qua giai đọan lịch sử ấy?
Sau tất cả những kinh
hoàng khủng khiếp, thách đố khả năng của trí tưởng tượng con người đã xảy ra –
Những cuộc chiến tranh lê thê, cuộc
diệt chủng Do Thái, vụ nổ nhà máy nguyên tử ở Chernobyl, ở Fukushima … không kể tới Hiroshima và Nagasaki –
nhân lọai đã thường xuyên đối đầu với việc bảo tồn kho tàng ký ức để nhắc nhở
người đời về những gì đã xảy ra.
Làm cách nào chúng ta có
thể khắc sâu vào trong lòng những gì đã xảy ra từ một quá khứ xa xăm, ở một nơi
cũng xa xăm không kém, mà chúng lại không có một mối quan hệ trực tiếp đến sự sống
hàng ngày của chúng ta? Quan trọng hơn, nhớ đến chúng không chỉ như một mảnh kiến
thức thông thường, mà phải mang cảm giác như chính mình là một phần trong biến
cố ấy?
Làm cách nào chúng ta có
thể đóng được chiếc thuyền con, tuy mong manh, nhưng đủ sức chuyên chở những mảnh
ký ức ấy vượt trùng khơi đến những bến bờ xa xăm cho những thế hệ nối tiếp?
Có một điều chắc chắn:
Đây là nhiệm vụ không một chút nào phù hợp với những tổ chức chính trị, những
cơ chế hàn lâm. Đơn giản chỉ vì với họ, việc chia sẻ những hồi ức của con người,
về cơ bản, là một công việc hoàn toàn bất hợp lý.
Vì vậy, chúng ta sẽ viện
dẫn đến văn chương, xem văn chương như là một nơi chốn ẩn náu mỗi khi phải
đương đầu với những nghịch lý vượt quá tầm kiến giải của lý trí con người. Qua
ngôn ngữ của văn chương, chúng ta cuối cùng sẽ cảm thông được với những đau khổ
của những người vô danh chưa hề quen biết. Hoặc, ít nhất, chúng ta sẽ đủ can đảm
buộc mình nhìn thẳng vào sự ngu xuẩn của những kẻ gây nên những lỗi lầm không
thể tha thứ và tự hỏi chính mình, liệu mầm mống của những điều điên rồ ấy có
đang ẩn nấp trong chính con người mình hay không.
Tôi đã từng chăm chú lắng
nghe tiếng kêu của những người đã từng sống qua kỷ nguyên cai trị của Đức Quốc
Xã, bằng cách đọc đi đọc lại “Nhật Ký của một cô gái trẻ” của Anne
Frank, “Đi tìm ý nghĩa con người” của Victor Frankl, “Nếu đây là một
con người” của Primo Levi.
Chẳng hạn như, từ Anne
Frank, tôi học được một chân lý vô giá về con người, rằng con người có thể trưởng
thành và phát triển kể cả trong lúc sống trốn chui trốn nhũi như một con thú. Từ
những tiết lộ trong ghi chép của Victor Frankl “những con người ưu tú nhất
đã không trở về” từ những trại tập trung, tôi nhận ra được nỗi thống
khổ vô bờ của những người sống sót khi bị buộc phải kéo lê sự sống. Và khi mà,
qua những trang sách vừa đọc, tôi cảm thấy một sợi dây nối kết giữa sự tồn tại
hôm nay, ở đây của tôi với một khoảnh khắc nào đó xa xăm trong quá khứ lúc tôi
chưa được sinh ra, cũng có nghĩa là chân trời của tôi đã được mở rộng và một thế
giới mới đang mở ra trong tôi.
Cũng tương tự như vậy,
văn học Nhật Bản vẫn tiếp tục đề tài về bom nguyên tử. Đề tài này chiếm một vị trí
đặc biệt trong mỗi thể lọai văn học – tiểu thuyết, thi ca, kịch, khảo cứu. Thí
dụ, những ai sinh năm 1962 như tôi, hẳn phải quen thuộc với tác phẩm “Hai cô
gái nhỏ có tên là Iida” của Miyoko Matsutani, câu chuyện về chiếc ghế biết
nói kỳ diệu đã nối kết hai bé gái nhỏ sống ở hai thời đại khác nhau trong một
căn nhà nơi tờ lịch đã bị đóng băng vào ngày 6/8/1945. Hoặc, với một trong những
tác phẩm không thể không biết đến của văn học Nhật Bản đương đại, “Mưa đen”
của Masuji Ibuse kể lể hết sức tỉ mỉ về những hậu quả của vụ ném bom nguyên tử
xuống hai thành phố Nhật Bản.
Nhà văn lừng danh
Kenzaburo Oe, lúc còn ở tuổi hai mươi vừa mới bước chân vào thế giới văn chương
đã đến thăm Hiroshima và cho chúng ta tập “những ghi chép ở Hiroshima”
nói đến tính cách khác thường về phẩm giá con người nơi những nạn nhân còn sống
sót của vụ ném bom đang trải qua những thống khổ vượt quá sức con người. Và còn
rất nhiều những thí dụ tương tự khác.
Nhưng có một tác phẩm
khác từ lâu được ngưỡng mộ và say sưa tìm đọc, kể cả hiện tại, và thường được
trích dẫn trong các sách giáo khoa: Đó là tiểu thuyết “Những đóa hoa mùa hè”
của Tamiki Hara. Tác giả là một nạn nhân trực tiếp của vụ ném bom nguyên tử,
ghi lại trong tác phẩm những điều tai nghe mắt thấy chính xác đến từng chi tiết
nhỏ.
Sinh ra ở Hiroshima năm
1905, Hara đang sống ở Tokyo, viết tiểu thuyết và làm thơ gởi đăng ở các tạp
chí văn học, thì vợ ông đột ngột qua đời năm 1944. Tháng 2 năm 1945, ông quay về
nơi chôn nhau cắt rốn, như thể ông “có hẹn với tấn thảm kịch sắp xảy đến cho
thành phố Hiroshima” như sau này ông đã viết. Buổi sáng ngày 6/8/1945, Hara
ngồi ở nhà – trong căn phòng tắm kín mít không có đến một cửa sổ – chi tiết này
có lẽ đã giúp ông thoát chết. Một cách may mắn, ông chỉ bị xây xát nhẹ, và sau
đó lang thang khắp thành phố đổ nát để ghi nhận những chi tiết có thật trong tập
bản thảo, sau đó trở thành tác phẩm lừng danh “Những đóa hoa mùa hè”.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/1-15.jpg
Hình ấn bản bằng Nhật
ngữ của tác phẩm “Những đóa hoa mùa hè” của Tamiki Hara, một nạn nhân của vụ
ném bom. Nguồn: Shinchosha
Quyển truyện bắt đầu với
sự kiện diễn ra 2 ngày trước khi thành phố bị ném bom, nhân vật chính đến thăm
mộ vợ mình. Anh ta lau chùi sạch sẽ tấm bia và đặt ở đó những đóa hoa mùa hè rực
rỡ giữa một khung cảnh êm dịu và tươi mát. Nhưng dù vậy, một nỗi buồn tràn ngập
hồn anh về sự mất mát trước cái chết của người vợ yêu quý, như một linh cảm về
những xác người nằm la liệt đến độ không thể đếm được, mà chỉ một thời gian ngắn
sau này anh sẽ chứng kiến.
Đoạn mô tả nhân vật chính
chạy đến dòng sông để tìm nơi trú ẩn có những chi tiết rất nhỏ bằng một giọng
văn lạnh đến rợn người. Ngôn ngữ được dùng thật ngắn gọn, không có chỗ cho những
từ dùng mô tả cảm xúc. Sự khủng khiếp mà nhân lọai chưa bao giờ chứng kiến lần
lượt được mở ra trước mắt người kể, khủng khiếp đến độ anh ta không thể nào thốt
ra được một lời nào mơ hồ dù chỉ để diễn tả cảm xúc của mình.
Những mặt người sưng vù
khiến không thể nói xác nằm đó là đàn ông hay đàn bà. Đầu người cháy đen thành
than với những chỗ lồi lên trông như hạt đậu đen. Tiếng người kêu gào liên tục
xin được uống ngụm nước. Trẻ con nắm chặt tay nhau, miệng thì thầm yếu ớt, “Mẹ
ơi … Bố ơi,”. Người đi ngang qua, xăm soi từng móng tay người chết, hay rút
lấy sợ dây lưng trên thi hài như muốn lưu giữ làm kỷ vật từ người chết. Thành
phố được mô tả như chìm trong một không khí sặc mùi tử khí: “Trong cái hư
không mênh mông lóng lánh sắc bạc, ẩn hiện những con đường, những dòng sông và
những cây cầu bắc ngang; rải rác đây đó là những xác người đã sưng phù hay thối
rữa. Một địa ngục thật mới mẻ, được tạo nên bởi một thứ kỹ thuật hết sức tinh
vi và phức tạp”.
Khi quả bom nguyên tử tước
đi khỏi mặt đất tất cả những gì gọi là thuộc về con người, dường như cùng lúc,
nó đã hỏa thiêu luôn cả ngôn ngữ của nhân lọai. Tuy nhiên, có lẽ do bởi ý trời
định, Hara đã mang theo trong người không chỉ thực phẩm, thuốc men mà còn có một
quyển sổ và một cây viết chì. Thế nên, những gì ông ghi lại trong quyển sổ của
mình không chỉ đơn thuần là những con chữ. Ông đã tạo nên một biểu trưng cho những
gì ông nghe được từ người chết, từ những người đang hấp hối, những điều mà
không thể chỉ đơn giản được biểu lộ bằng chữ viết. Những dấu tích, những vật chứng
mà những người đã lặng lẽ biến mất khỏi đời này từng sở hữu, chúng thực sự vẫn
còn tồn tại.
Trong lúc sống cô đơn vì
bệnh tật đã cướp đi của Hara người vợ thân yêu, ông còn đối mặt với thảm kịch
bom nguyên tử. Thế nên, các sáng tác của Hara đều có gốc rễ từ nỗi im lặng khủng
khiếp của sự chết. Là một nhà văn, một nhà thơ, Hara đứng giữa thanh thiên bạch
nhật, không phải để phát biểu với đồng lọai mà để lặng lẽ cam chịu sự dằng xé của
nghịch lý: Tìm lời cho những tiếng kêu không thành tiếng của những người
đã bị tước đọat mất khả năng nói thành lời của mình.
Hara còn là tác giả một
bài thơ ngắn nhan đề “Đây là con người nhân lọai”, một tác phẩm vượt lên
trên mọi đắng cay, giận dữ, để tìm cách vừa dịu dàng, vừa tinh tế làm sống lại
tiếng nói đã bị hủy diệt của những con người đã không còn mang hình dạng con
người:
Đây là một con người nhân lọai
Hãy xem họ đã bị bom nguyên tử làm biến dạng như thế
nào
Thân xác họ đã sưng phù hư hại
Đàn ông đàn bà nhìn cũng giống như nhau
Này đây những lời kêu cứu
Tiếng nói câm lặng đang tìm cách vượt thoát
Khỏi những đôi môi sưng vù trên khuôn mặt thối rữa
Đây là một con người nhân lọai
Đây là một con người nhân lọai
Đọc bài thơ, chúng ta
không thể không liên tưởng đến tác phẩm “Nếu đây là một con người” của
Primo Levi, một nhà hóa học và cũng là một người sống sót từ trại tập trung.
Ngay từ đọan mở đầu, Levi đã đặt câu hỏi:
Hãy xem liệu đây có phải là một con người
Khi anh ta đầm mình lao động trong đám bùn lầy
Người chưa hề biết thế nào an lạc hòa bình
Người đã phải giành giật đến từng mẩu bánh nhỏ
Người chết chỉ bởi một câu trả lời có hay không
Tôi không biết hai nhà
văn Hara và Levi có từng quen biết nhau không, nhưng chúng ta có thể nhận ra mối
đồng cảm trong ngôn ngữ của họ. Một người hỏi liệu đây có phải là một
con người hay không; người kia trả lời rằng đúng vậy, đây là một
con người nhân lọai. Trong tác phẩm của họ, chúng ta chứng kiến cuộc gặp
gỡ giữa một người luôn phấn đấu để bảo tồn phẩm chất nhân lọai và người kia lúc
nào cũng dõi mắt canh chừng không để cho phẩm chất ấy bị hư mất – một cuộc hội
ngộ tư tưởng mang tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến các thế hệ tương lai. Trong thế
giới văn chương, một chân lý quan trọng nhất có thể được tìm thấy ở những trùng
hợp ngẫu nhiên, đơn giản và đôi khi, vô nghĩa. Với sự tiếp tay của văn chương,
lời của người khuất vãng sẽ được gom lại và cẩn trọng đặt vào trong lòng những
chiếc thuyền nhỏ bé để chúng tiếp tục hòa nhập vào với dòng sống của thực tại.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/1-16.jpg
Hiroshima ngày
8/9/1945, một tháng sau vụ ném bom. Nguồn: Wayne Miller/ Magnum
Thêm một trùng hợp ngẫu
nhiên khác nữa: Có lẽ với cảm thức cho rằng mình đã hoàn thành nhiệm vụ với tư
cách kẻ sống sót sau một tấn thảm kịch; hoặc cũng có lẽ do bởi gánh nặng trên
vai về một quá khứ quá khủng khiếp, vượt sức chịu đựng con người, cả hai nhà
văn đã tự kết liễu đời mình; Hara năm 1951 và Levi năm 1987 (có người cho rằng
cái chết của Levi không phải do tự sát)*.
Trong lúc ngồi viết những
dòng này, trước mặt tôi là bộ sưu tập những bức ảnh của Hiromi Tsuchida, chụp
những phiên bản được tái tạo từ những tàn tích của vụ ném bom do viện bảo tàng
hòa bình Hiroshima thực hiện. Tôi đặc biệt bị ấn tượng bởi một bức ảnh chụp hộp
đựng thức ăn và bình đựng nước mang theo đến trường của một học sinh trung học
đệ nhất cấp tên là Shigeru Orimen. Lớp học của cậu được trưng dụng làm nhiệm vụ
quốc phòng và có mặt trong thành phố vào buổi sáng ngày 6 tháng 8 năm 1945.
Lúc quả bom được ném xuống,
Shigeru cách tâm điểm nơi quả bom tiếp xúc mặt đất khỏang 500 mét. Mẹ cậu tìm
được con nằm lẫn trong đống xác chất đống dọc theo bờ sông và lục lại được hộp
thức ăn và bình nước trong túi xách của Shigeru. Bà còn nhớ buổi sáng hôm đó, cậu
rời nhà với niềm mong ước sao cho chóng đến giờ ăn trưa vì hôm đó bà nấu món
cơm chiên đậu là món khoái khẩu của Shigeru. Cái hộp đựng thức ăn đã bị móp méo
thảm hại, nắp bật ra và thức ăn bên trong chỉ còn là vài cục nhỏ cháy thành
than.
Thực ra, cái hộp đựng thức
ăn trưa nhỏ bé đã chứa đựng một điều gì đó quan trọng hơn: đó là sự ngây thơ vô
tội của một bé trai chỉ háo hức mong được thưởng thức món ăn ưa thích của mình
và tấm lòng người mẹ dành cho con. Ngay cả khi nạn nhân cuối cùng của vụ ném
bom đã biến mất khỏi trần gian, và cả khi bộ đồ đựng thức ăn trưa này chỉ còn
là một tàn tích trơ trơ như gỗ đá, nhưng bao lâu vẫn còn có một ai đó sẵn lòng
lắng nghe tiếng nói ẩn giấu trong cái hộp cơm móp méo của Shigeru, thì những ký
ức này sẽ vẫn còn sống sót.
Tiếng nói của người chết luôn luôn là vĩnh cửu, bởi
vì nhân lọai lúc nào cũng sở hữu một chiếc thuyền nhỏ – ngôn ngữ của văn học –
để đưa tiếng nói ấy vào với các thế hệ tương lai.
______
Tác giả: Yoko Ogawa là một nhà văn Nhật Bản đương đại. Bà sinh năm 1962, tác giả
nhiều tác phẩm đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Các tác phẩm tiêu biểu: Viên
quản gia và vị giáo sư (The housekeeper and the professor – 2003); Tập truyện
Báo thù (Revenge – 1998); Khách sạn Iris (Hotel Iris – 1996); Cảnh sát ký ức
(The Memory Police – 1994) v..v… Trong số đó, quyển The Memory Police
được coi là tác phẩm mang ý nghĩa và tầm vóc của những tác phẩm nói về các chế
độ chuyên chế độc tài của George Orwell.
Bà Ogawa đã từng vào đến
chung kết giải thưởng văn chương cao quý của Mỹ National Book Foundation 2019;
nằm trong danh sách chung kết giải Man Booker International Prize 2020. Ngòai
ra, bà đã đọat nhiều giải thưởng quan trọng của văn học nhật Bản. Hiện Yoko
Ogawa đang cộng tác với nhiều tạp chí quốc tế, phải kể đến: the New York Times
Magazine, A Public Space …
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/1-17.jpg
Nhà văn Nhật bản
Yoko Ogawa (1962- ). Nguồn: goodreads.com
Chú Thích:
* Ngày 11/4/1987, người
gác cửa của một căn chung cư ở thành phố Turin, nước Ý, nơi Primo Levi đã sống
hầu như cả trước lẫn sau chiến tranh đã tìm thấy nhà văn nằm chết dưới chân cầu
thang. Chuyên viên giảo nghiệm xác định ông chết do tự sát. Những người quen biết
ông đều đồng ý với giả định đó, sau những đau khổ ông đã chịu đựng trong chiến
tranh và sống với chúng trong suốt quãng đời còn lại. Tuy nhiên, cũng có người
cho rằng, cái chết của nhà văn là một tai nạn, vì ông mắc phải chứng bệnh hay bị
choáng váng, đi đứng không vững. Cho đến nay, sự tranh cãi vẫn còn và chưa có
thêm chứng cớ để xác định chính thức rằng Primo Levi chết vì tai nạn hay do tự
sát.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/1-18-1024x546.jpg
Nhà văn Primo Levi ở
New York (1919-1987). Nguồn: primolevicenter.org
** Shigeru Orimen, một học
sinh lớp 6 (ngày xưa thời VNCH gọi là lớp đệ Thất), vào buổi sáng ngày 6/8/1945,
đang làm công việc dọn dẹp một tòa nhà vừa bị đập phá theo sự trưng dụng của
chính phủ ở Hiroshima thì quả bom nguyên tử ném xuống cách chỗ của cậu khoảng
500 mét. Mãi đến ngày 9/8, tức 3 ngày sau, mẹ cậu mới tìm được xác con nằm
trong một đống đổ nát dọc theo bờ sông, cùng với hộp đựng thức ăn trưa và bình
nước trong túi cặp.
Cha và anh Shigeru đã đi
phục vụ ở tiền tuyến. Ở nhà, cậu phải thay cha anh làm công việc cày bừa, gieo
hạt, tưới cây giúp mẹ. Bữa ăn hôm đó là sản phẩm thu họach từ công khó của
Shigeru sau nhiều ngày miệt mài đồng áng. Nỗi đau của bà mẹ còn nặng nề hơn nữa
khi biết con mình không bao giờ còn có dịp thụ hưởng thành quả lao động do
chính tay mình làm ra, do chính tay mẹ nấu cho mình. Hai di tích của Shigeru
Orimen do gia đình lưu giữ và hiến tặng cho viện bảo tàng Hòa Bình của thành phố
Hiroshima.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2020/08/1-19.jpg
Di ảnh cậu học trò
lớp 6 Shigeru Orimen. Nguồn: Chugoku Shimbun
-----------------------------------------------------------------------------
.
Kim
Anh
07/08/2020
https://baotiengdan.com/2020/08/07/cau-be-cach-day-75-nam/
Ngày 6/8/1945, trái bom
nguyên tử đầu tiên của thế giới thả xuống Hiroshima. Thật trớ trêu, thứ vũ khí
khủng khiếp này có biệt danh là Little Boy.
“Cậu Bé”, tên gọi lẽ ra
là yêu thương, là chăm chút, là nâng như trứng, hứng như hoa vì đó là mầm mới,
là tương lai của nhân loại. Đã làm người thì ai cũng biết rằng mình sẽ chết, thế
hệ này sẽ qua đi để nhường chỗ cho những em bé sắp tới. Thế mà…! Loài người này
sẽ ra sao khi người ta cài sẵn trên đường những trái bom hủy diệt?
Năm 1975, tức ba mươi năm
sau “Cậu Bé”, các nước đã đua nhau cài thêm hàng loạt ‘cậu bé’ khác, lơ lửng
trên đầu loài người. Giới khoa học lúc ấy đã chỉ ra rằng, số vũ khí hạt nhân mà
loài người sở hữu đã đủ để nổ tung, không phải một thành phố mà là cả Trái Đất,
và không chỉ một lần mà đến bảy lần.
Đến hôm nay thì sao? Người
ta không cần máy bay bỏ bom nữa. Những hoả tiễn liên lục địa đã hoàn toàn có thể
mang đầu đạn hạt nhân tấn công vào hàng loạt những thành phố đông dân khắp mặt
đất. Một thế chiến nếu xảy ra lần nữa, thì, theo nhà bác học Albert Einstein,
cha đẻ của bom nguyên tử, loài người sẽ trở lại thời tiền sử, chỉ biết lượm đá
mà săn thú và ném nhau.
Thế hệ sinh sau thế chiến
thứ hai, càng lâu ngày càng quen và càng quên, hết còn ý thức về mối họa hủy diệt
đó. Người ta vui vẻ sống với viễn cảnh sung túc thịnh vượng nhờ khoa học kỹ thuật
tiến như vũ bão cách diệu kỳ.
Các cường quốc lại đua
nhau giành cho mình quyền “first”. America First, China First, Russia First… bất
kể cảnh lầm than đói khổ vẫn tràn lan ở các nước nghèo.
Và các anh nghèo, như Bắc
Hàn chẳng hạn, chẳng cam chịu bị chèn ép, vẫn có “chiêu” của mình: Cũng đầu đạn
hạt nhân, cũng hỏa tiễn tầm xa. Giàu mới sợ chết chứ nghèo thì còn ngán gì?
Ngon thì chết chung! Anh nghèo khác như “Nhà nước Hồi giáo” chẳng hạn, thì có
chiêu khủng bố: một mạng đổi trăm mạng.
Muốn thế giới bình an và
loài người còn có tương lai, thì điều hiển nhiên là đừng đẩy ai vào đường cùng.
Tấm bánh tài nguyên của Trái Đất này phải là của chung. Không thể để tình trạng
kẻ ăn không hết người lần không ra, vì đó là mầm mống của xung đột.
***
Năm thứ 20 của thiên niên
kỷ thứ ba, tức là năm nay, 75 năm sau “Cậu Bé”, loài người chưa chịu tỉnh ngộ,
thì… “Cô Bé” xuất hiện.
Cô Bé mang tên
Coronavirus. Sự hủy diệt lần này chậm rãi, âm thầm, như vô hình vô thanh, không
ầm ĩ như những trái bom hạt nhân nhưng cứ lùi lũi tiến tới làm cả loài người
chưng hửng và tê liệt! Chết như rạ! Và đó chỉ mới là “đợt một”! Chưa hết, và
chưa biết khi nào mới chấm dứt!
Chỉ có thể có được hoà
bình, để được sống mà tiếp tục nền văn minh này, khi nhân loại coi nhau như anh
chị em một nhà, ngôi nhà chung Trái Đất. No đói có nhau. Ngọt bùi chia nhau.
Khi tối lửa tắt đèn biết tương trợ đùm bọc. Một đứa trong nhà “mắc dịch” thì
anh chị em xúm nhau cứu giúp chứ không đổ thừa nó mang bệnh vào nhà.
Chỉ có thể tồn tại khi và
chỉ khi biết thương yêu, nhường nhịn, cưu mang, đùm bọc nhau. Sức mạnh hạt
nhân, đại dịch virus, kinh tế tê liệt, nạn đói, thất nghiệp, hỗn loạn xã hội…
chưa hết, còn biến đổi khí hậu với hậu quả khôn lường nữa.
Bao giờ loài người mới tỉnh
ngộ?
No comments:
Post a Comment