Tập
thể các nhân sĩ trí thức Việt Nam
01/06/2020
Kính
gởi:
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Đồng
kính gởi: Ông Nguyễn Xuân
Phúc, Thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL), nơi chiếm 90% mức xuất khẩu gạo, vùng nuôi trồng thủy sản xuất khẩu,
cây trái lớn nhất cả nước nhưng là nơi mà cơ sở hạ tầng lại thấp nhất so với
các vùng khác. Đời sống người dân ở đây còn khó khăn muôn bề. Trong khi đó tình
hình biến đổi khí hậu cũng như tác động xấu của con người vào môi trường sống dự
báo sẽ có những hậu quả tai hại khôn lường. Người dân ĐBSCL vì thế sẽ phải
đương đầu ra sao để bảo vệ và phát triển cuộc sống? Trước tình hình bức xúc
này, một số nhân sĩ, trí thức, chuyên gia nông nghiệp, thủy lợi chúng tôi cùng
nhau viết bản kiến nghị này với mong muốn góp phần với Nhà nước trong việc vạch
ra một chính sách chiến lược phát triển hợp lý hữu hiệu để phát huy các mặt thuận
lợi có sẵn của vùng miền đồng thời khắc phục những sai sót đã phạm phải, nhằm
giúp cho Đồng bằng sông Cửu Long được phát triển đúng hướng, bền vững trong xu
thế phát triển chung của cả nước.
Mới đây, ngày 26.5.2020,
trong cuộc họp Thường trực Chính phủ về phát triển vùng kinh tế trọng điểm, người
đứng đầu Chính phủ đã có yêu cầu cần đặc biệt quan tâm đến hạ tầng khu vực
ĐBSCL, nên thiết tưởng bản kiến nghị này, được xây dựng trên tinh thần nghiên cứu
khoa học vô tư khách quan, sẽ có thể cung cấp thêm được một nguồn tham khảo bổ
ích cho đại cuộc phát triển đất nước.
Nhiều năm nay, việc
xâm nhập mặn các dòng sông và nạn hạn hán, thiếu nước ngọt trong canh tác trong
sinh hoạt thường xuyên xảy ra ở một số tỉnh ĐBSCL. Việc tăng vụ trồng lúa
đã có hiệu quả làm tăng sản lượng gạo và lượng gạo xuất khẩu,
nhưng nông dân nghèo vẫn hoàn nghèo. Xuất khẩu gạo càng tăng, thành tích
chính phủ càng lớn thì chi phí đầu tư càng lớn, nạn ô nhiễm môi
trường càng gia tăng do qui mô sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật
ngày càng lớn, môi trường sống càng bị đe dọa nghiêm trọng.
Nhìn lại chặng đường dài,
không thể không hỏi vì sao một vùng đất màu mỡ, giàu tiềm năng
mà vẫn là vùng trũng về kinh tế, cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục. Nhiều người trẻ
vẫn phải đi xuất khẩu lao động, làm “osin” hoặc lấy chồng
mà không có tình yêu, cực khổ muôn bề chỉ vì hy vọng kiếm ít tiền gởi về cho
cha mẹ.
Về môi trường tài nguyên
thiên nhiên, biểu hiện dễ thấy là sự bức tử dòng sông Mê-Kông. Trung Quốc xây đập
thủy điện thượng nguồn sông Mê-Kông góp phần gây hạn hán (trong
những năm ít nước, do phát điện gián đoạn), ngăn chặn một phần phù
sa di chuyển về hạ lưu, tiêu diệt một số loài thủy sản vì
chúng mất môi trường sinh đẻ tự nhiên. Lào ngăn đập làm nhà máy thủy điện với
tham vọng là bình điện của Châu Á… Việc tăng vụ sản xuất lúa, xây dựng cơ sở hạ
tầng, tàn phá rừng tự nhiên trong lưu vực sông đã góp
phần làm khô hạn; và phía Việt Nam cũng đã góp phần
không nhỏ trong việc gây nạn hạn này.
Môi trường và tài
nguyên tự nhiên suy thoái một phần là do biến đổi khí hậu, khai
thác thiếu bền vững ở thượng nguồn sông Mê-Kông, song nguyên nhân
chính là Chính phủ đã thiếu một chiến lược lâu dài thích ứng với tự nhiên
và xu thế phát triển của khu vực. Không thể đổ lỗi cho khách quan
mà phải tìm cách thích ứng với các tác động không mong muốn
khách quan ấy. Một thời gian quá dài, Chính phủ ưu tiên cho sản xuất lương
thực ngay cả khi đã dư thừa cho nhu cầu trong nước. Chính phủ đã quá
tự hào với việc trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, đóng góp vào an
ninh lương thực thế giới, bất chấp việc khai thác quá mức tài nguyên đất, nước
với việc gia tăng sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật và không có hành động
đáng kể nào để bảo vệ sức khỏe của đất cũng như môi trường. Cũng chính vì tư
duy phải đứng ở “hàng đầu” trong xuất khẩu gạo mà Chính phủ đã bỏ quên lợi thế
so sánh về thị trường các cây trồng khác, thu nhập cao hơn, sử dụng tài nguyên
ít hơn và cuối cùng là sản xuất bền vững hơn.
Việt Nam không thể di
chuyển ĐBSCL đi xa người láng giềng xấu bụng Trung Quốc. Việt Nam cũng không thể
ra lịnh cho Lào, Thái Lan. Việt Nam cũng không thể chống lại biến đổi khí hậu
và nước biển dâng. Việt Nam chỉ có thể làm cho người nông dân giàu
hơn, ĐBSCL phát triển hơn bằng chính sách biện pháp phù hợp, thuận với qui luật
thiên nhiên.
Gần đây trên nhiều diễn
đàn, mạng xã hội đang có sự tranh luận gay gắt giữa việc dừng hay tiếp tục xuất
khẩu lúa gạo. Đây là việc nhỏ, song nó cho thấy việc thiếu chiến lược trong điều
hành sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam, chính sách hướng đến sự an toàn cho
Chính phủ hơn là đứng về phía lợi ích của người dân.
Chính phủ quá nhấn mạnh đến
an ninh lương thực mà không nhấn mạnh đến an ninh dinh dưỡng trong khi cả
thế giới từ lâu đã thực thi an ninh dinh dưỡng với việc đa dạng hóa nguồn thực
phẩm. Đây chính là lý do tại sao Việt Nam xuất khẩu gạo thứ 2-3 thế giới trong
rất nhiều năm mà chỉ số An ninh lương thực (GFSI) của Việt Nam năm 2019 chỉ xếp
thứ 57 trong 113 nước được quốc tế đánh giá, trong khi tại ASEAN, Singapore
không sản xuất một cân gạo nào lại xếp thứ 12 thế giới. Điều này cũng phản ánh
qua chỉ số hạnh phúc toàn cầu (WHI), khi VN chỉ được xếp thứ 94 trong 156 quốc
gia được xếp hạng.
Vì những lẽ trên, chúng tôi, những người ký tên dưới
đây, khẩn thiết kiến nghị Chính phủ:
1. Rà soát, bổ sung Nghị định 120 năm 2017 về phát triển bền vững ĐBSCL để
có một chiến lược phát triển dài hạn, toàn diện về ĐBSCL thuận theo
tự nhiên. Có chiến lược phát triển phù hợp từng vùng, tiểu vùng nông
nghiệp sinh thái. Đa dạng hóa sản phẩm theo điều kiện tự nhiên. Thay đổi cơ cấu
sản xuất và xuất nhập khẩu nông sản trước hết vì mục tiêu an ninh dinh dưỡng của
dân tộc.
2. Mọi chính sách cần đặt lợi ích của người dân nói chung và người nông
dân nói riêng làm trung tâm. Sản xuất thông minh, hài hoà giữa các yếu tố đáp ứng
thị trường, bảo vệ tài nguyên, bảo đảm lợi ích người trồng lúa, loại bỏ tư duy
Việt Nam làm “an ninh lương thực thế giới”.
Riêng về sản xuất lúa gạo,
cần qui hoạch sản xuất lúa vừa đủ ăn và có dự trữ trong 3 tháng và chỉ
sản xuất tại những vùng thuận lợi nhất, trên cơ sở sử dụng thông minh tài
nguyên đất, nước và bảo vệ môi trường… Không làm lúa 3 vụ, chỉ làm 2 vụ ở
thời điểm thuận lợi về thiên nhiên. Ở vùng bị xâm mặn chỉ duy trì một vụ
lúa vào mùa mưa, thời gian còn lại nuôi tôm cá hoặc những thủy hải sản phù hợp. Chuyển
đổi một phần đất sang trồng cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản. Để chuyển đổi đất
lúa cần có giải pháp để sản xuất hiệu quả, nhất là giải pháp về logistics, về
chế biến, và bảo quản.
3. Áp dụng kỹ thuật canh tác tận dụng ưu thế tự nhiên. Chính phủ cần có
chính sách hỗ trợ các trường đại học ĐBSCL, đầu tư hơn nữa cho công tác nghiên
cứu để cùng với nông dân tìm những kỹ thuật canh tác cây lúa, cây
trái, nuôi trồng phù hợp, đem lại lợi ích cao nhất cho người nông
dân.
Trên cơ sở Nghị định số
57/2018/NĐ-CP ngày 17/04/2018, về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp
đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ cần có một chính sách dài hơi
khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân đầu tư cho sản
xuất, bảo quản và chế biến nông sản, thủy sản theo hướng chuỗi
giá trị bền vững hài hòa với cơ sở hạ tầng phát triển, logistics hiện
đại để thực sự doanh nghiệp là động lực phát triển của đất nước. Có chính sách
hỗ trợ bằng miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu.
4. Chỉ đạo các địa phương không nên cưỡng bức nông dân và các thành phần
khác vào hợp tác xã, không đặt chỉ tiêu phát triển hợp tác xã. Khi người dân có
nhu cầu liên kết với nhau, họ sẽ chủ động xây dựng hợp tác xã. Qua quá trình
phát triển, nhà nước có thể hướng dẫn họ cách tổ chức điều hành hợp tác xã theo
phương thức sản xuất kinh doanh tiên tiến hiện đại như các nước phát triển,
trên tinh thần tự nguyện của các thành viên.
5. Tăng cường phát triển giao thông, hạ tầng ĐBSCL. Bỏ Tổng cục Dự Trử Quốc
Gia, lập Quỹ Dự Trữ Quốc Gia cho doanh nghiệp đấu thầu thực hiện.
Đối với nước ngọt phục vụ
cho sinh hoạt đời sống hàng ngày, chính phủ nên hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất
tại chỗ với chính sách ưu đãi và lâu dài. Chính phủ có kế hoạch hướng dẫn
giúp đở người dân tích trử nước ngọt bằng nhiều hình thức trong mùa mưa và đưa
vào trường chương trình giáo dục các em học sinh tiết kiệm nước trong sinh hoạt.
6. Bằng mọi biện pháp thích hợp, phục hồi lại rừng tự nhiên Tây Nguyên
trên diện rộng để bảo vệ lưu vực và nguồn nước sông Cửu Long và phục hồi các
khu rừng tự nhiên vốn có ở ĐBSCL. Việt Nam cần có kế hoạch thực hiện khai
thác điện gió, điện mặt trời nổi, điện mặt trời, điện hải lưu và các nguồn năng
lượng tái tạo khác vừa nhanh vừa rẻ. Quá trình đó sẽ làm giảm dần đi đến chỉ
còn một phần thủy điện thật sự hữu ích với qui vận hành thích hợp (phát điện,
chống lũ, cấp nước sinh hoạt và công nghiệp), duy trì hoặc trả lại từng phần
dòng chảy tự nhiên trên các sông suối. Nhà nước VN nâng cao ý thức và trách nhiệm
ủy viên Ủy Ban Sông Mê-Kông, trước mắt cũng như về lâu dài cần thúc đẩy nhanh đối
thoại giải quyết việc phục hồi sông Mê-Kông giữa các nước trong Ủy ban Sông
Mê-Kông và Trung Quốc để hài hòa lợi ích các nước liên quan. Phục hồi các vùng
ngập mặn ở các cửa sông, các vùng ven bờ biển để vừa giữ biển vừa lấn biển vừa
tạo môi trường sống cho các loài ven biển.
7. Chính phủ hãy nhanh chóng điều chỉnh chính sách quốc gia trên cơ sở hài
hòa lợi ích các vùng trong cả nước, không để cho ĐBSCL đóng góp 90% lương thực
xuất khẩu, là chủ lực về thủy sản, cây trái… mà hạ tầng kém phát triển, cuộc sống
của người dân về mọi mặt đều xếp cuối so với các vùng khác.
Ngày 1 tháng 6 năm 2020
DANH SÁCH KÝ TÊN:
1.
Vũ Trọng Khải, PGS Tiến
Sĩ, Chuyên gia độc lập Chính sách Nông nghiệp.
2.
Đào Công Tiến, PGS,
nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế T/p HCM
3.
Nguyễn Thế Hùng, GSTS, Đại
học Đà Nẵng
4.
Nguyễn Quang A, TS Tin học,
Hà Nội
5.
Phạm Xuân Yêm, GS Vật lý,
Paris, Pháp
6.
Nguyễn Đình Nguyên, TS Y
Khoa, Australia
7.
Phan Thị Hoàng Oanh, TS
Hóa học, Sài Gòn
8.
Nguyễn Mai Oanh, ThS Kinh
tế Phát triển, Sài Gòn
9.
Nguyễn Huệ Chi, GS Ngữ
văn, Hà Nội
10. Đặng Thị Hảo, TS Văn học, Hà Nội
11. Trần Đức Quế, Chuyên viên hưu trí, Hà Nội
12. Nguyễn Thị Kim Chi, Nghệ sĩ ưu tú, TP HCM
13. Võ Văn Thôn, nguyên GĐ Sở Tư pháp TP HCM
14. Nguyễn Thu Giang, nguyên PGĐ Sở Tư pháp TP HCM
15. Kha Lương Ngãi, nguyên phó TBT báo SGGP
16. Bùi Nghệ, Kỹ sư, Sài Gòn
17. Lê Phú Khải, Nhà văn, Nhà báo, Sài Gòn
18. Lại Thị Ánh Hồng, Nghệ sĩ, Sài Gòn
19. Lê Thân, Nhà hoạt động Xã hội, Sài Gòn
20. Hoàng Hưng, Nhà thơ-nhà báo tự do, TPHCM
21. Mạc Văn Trang, TS Tâm lý học, Hà Nội
22. Nguyên Ngọc, Nhà văn, Hội An
23. Hoàng Dũng, PGSTS Ngữ văn, TPHCM
24. Phạm Đình Trọng, Nhà văn, Sài Gòn
25. Giáng Vân, Nhà thơ, Hà Nội
26. Trần Bang, Kỹ sư, Sài Gòn
27. Trần Tiến Đức, Nhà báo độc lập, Đạo diễn truyền
hình và phim tài liệu, Hà Nội.
____
Để cứu lấy Đồng bằng Sông Cửu Long, rất cần sự lên
tiếng của tầng lớp Thân sỹ Trí thức. Chúng tôi soạn bản kiến nghị này trình lên
Chính phủ. Các Thân sỹ, Trí thức quan tâm đến thực trạng của đất nước, muốn đồng
hành cùng chúng tôi, và đồng ý ký tên xin soạn rõ theo cú pháp: {Họ Tên, chức
danh/nghề nghiệp (nếu có), Tỉnh hoặc Thành phố (và quốc gia nếu ở nước ngoài)
đang cư trú}. Gửi về địa chỉ email: tuyenbodbscl@gmail.com
Trân trọng cám ơn
No comments:
Post a Comment