24/01/2020
Các ca xác nhận nhiễm virus corona đầu tiên ở Việt
Nam đã xuất hiện.
Khi thông tin về hai người nhiễm bệnh Trung Quốc đến
từ Vũ Hán được công bố vào ngày hôm qua 23/1/2020, nhiều người Việt Nam không
khỏi thắc mắc, hay thậm chí oán trách. Vì sao hai người này đã bệnh vậy còn di
chuyển khắp từ Bắc xuống Nam, “rải bệnh” tùm lum vậy? Và vì sao chính quyền lại
cho phép họ tự do di chuyển như thế?
Đó đều là những thắc mắc chính đáng, nhưng oán trách
thì có phần sai chỗ.
Hai người bệnh ở Vũ Hán trên, cũng như rất nhiều người
Trung Quốc từ Vũ Hán, đã ra khỏi thành phố từ vài tuần trước. Vào thời điểm đó,
lãnh đạo Vũ Hán vẫn còn
tuyên bố “mọi chuyện nằm trong tầm kiểm soát”, còn người dân khắp nơi ở
Trung Quốc vẫn vô tư
“đâu cần lo lắng, có Đảng lo hết rồi”. Đến khi chuyên gia dịch tễ từ trung ương
kiểm tra phát hiện đã có trường hợp nhân viên y tế bị lây nhiễm, quan chức địa
phương còn khăng khăng lắc đầu
“không có chuyện đó”.
Thậm chí vào ngày 18/1/2020, khi ở nước ngoài đã có
những ca xác nhận nhiễm bệnh đầu tiên còn “virus ái quốc” vẫn chỉ quanh quẩn
trong Vũ Hán (!), chính quyền thành phố còn cho tổ chức bữa cơm đại đoàn viên
tất niên, tụ tập những 40.000 hộ gia đình tụm lại một chỗ ăn uống thỏa thuê.
Có người đã không tin nổi vào mắt mình, “hay là mấy
người đó chê dịch bệnh bùng phát chưa đủ mạnh?!”.
Tất nhiên là không phải. Người dân Vũ Hán hay ở đâu
cũng như nhau, cũng đều sợ chết, nhất là những cái chết lãng xẹt như nhiễm dịch
bệnh.
Lý do họ vẫn vô tư rất đơn giản: không ai nói cho họ
biết chuyện gì đang xảy ra.
Mọi thông tin đều bị kiểm soát, nguồn tin chỉ được lấy
từ cùng một “cơ quan có thẩm quyền”. Và khi cơ quan có thẩm quyền đó có ý định
che giấu, đa phần những người dân lương thiện sẽ lãnh đủ.
Các chính quyền ở những địa phương và các quốc gia
khác cũng bị “lỗ đen thông tin” che mắt, không đủ thông tin để quyết định tức
thời (trừ phi là kiểu chính quyền cực đoan như Bắc Triều Tiên, có thể ngay lập
tức ra lệnh nội bất xuất ngoại bất nhập – một việc vốn dĩ cũng không khác gì mấy
so với chính sách đóng cửa tự chơi xưa nay của họ).
Thậm chí đến cả các chuyên gia cũng không xoay sở nổi
trong “lỗ đen” này.
Nhiều ý kiến chỉ trích Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đến
thời điểm hiện tại, ngày 24/1/2020, vẫn chưa công bố tình trạng y tế khẩn cấp
toàn cầu đối với dịch bệnh corona tại Vũ Hán, bất chấp việc nó đã lan ra hơn một
chục nước. WHO có lý do (và khó khăn) của họ: không đủ thông tin.
Các chuyên gia của WHO đến nay
chưa thể biết được nguồn lây bệnh đầu tiên, cơ chế lan truyền chính xác của
nó, độc lực tới đâu … Họ không được tham vấn và cung cấp thông tin ngay từ đầu.
Mãi cho tới khi các quan chức địa phương không còn “kiểm soát được tình hình”,
WHO mới được nhắc đến.
Tình hình còn tệ hơn ở cách mà các lãnh đạo địa
phương đó muốn “kiểm soát”.
Quản Dật, chuyên gia dịch tễ hàng đầu của Hong Kong,
người từng có vô số kinh nghiệm chống SARS, khi đến Vũ Hán để tìm hiểu thông
tin dịch bệnh đã phải lắc đầu ngán ngẩm khi thấy mức độ chủ quan trong công tác
phòng chống dịch nơi đây.
Nhưng điều đáng sợ nhất, theo lời
vị chuyên gia này, là họ đã thanh tẩy sạch sẽ toàn bộ chợ hải sản Hoa Nam, nơi
được cho là nguồn gốc phát tán bệnh đầu tiên, trước khi điều tra ra được căn
nguyên của dịch bệnh.
Đây đích thị là minh họa điển hình của “nhiệt tình cộng
với ngu dốt thành phá hoại” – chỉ có điều người ta không biết chắc cái dốt này
là giả ngu hay cố tình.
Hiện trường vụ án đã bị xóa sổ, làm sao điều tra? Quản
Dật bất lực, “nơi này hình như không cần chuyên gia phòng dịch, cũng không cần
các nhà khoa học.” Vì vậy dù mới đặt chân đến Vũ Hán vào ngày 21/1, ngay hôm
sau ông đã rời khỏi.
Cũng chính vị chuyên gia này cảnh báo, rằng khả năng
bộc phát lây lan của dịch cúm corona Vũ Hán có thể
gấp 10 lần SARS ngày trước.
Theo tính toán của ông, dựa vào chu kỳ ủ bệnh, đợt bùng
phát tiếp theo của dịch có thể sẽ đến vào cuối tháng giêng, khoảng từ ngày
27/1/2020.
Cho đến thời điểm này, độc lực của virus corona có vẻ
vẫn thấp hơn nhiều so với các loại virus cúm gần đây như MERS (Hội chứng hô hấp
Trung Đông) hay SARS. Tỷ lệ tử vong của nó còn thấp và chủ yếu nguy hiểm đối với
những người lớn tuổi, có tiền sử bệnh từ trước.
Nhưng khi dịch bệnh lây lan trên diện rộng, không ai
biết được khả năng đột biến của virus sẽ khiến độc lực của nó tăng thêm hay yếu
đi.
Việc che giấu thông tin vì vậy giống như một canh bạc
chết người. Nếu hên thì dịch sẽ yếu dần, xui thì tất cả cùng chết.
Bạn sẽ thắc mắc, có ai điên lại đi đánh canh bạc đần
độn kiểu đó?
Họ không điên, cũng không đần độn. Nhưng bạn sẽ phải
xỏ chân vào chiếc giày của họ để hiểu cách những quan chức trong các chế độ độc
tài suy nghĩ và hành động.
Câu chuyện về thảm họa Chernobyl mà Luật Khoa từng
có
bài viết giới thiệu là một ví dụ điển hình.
Khi nhà máy phản ứng hạt nhân Chernobyl gặp sự cố đầu
tiên vào tháng 4/1986, những người lãnh đạo quản lý tại đây đã họp lại và quyết
định báo cáo sự việc lên cấp trên theo hướng “chuyện nhỏ”, và “mọi thứ đều
trong vòng kiểm soát”.
Mãi đến lúc người ta phát hiện phóng xạ rò rỉ ở cách
đó hàng trăm, thậm chí hàng ngàn km, sự việc mới vỡ lở.
Khi đó, đã có hàng trăm người nhiễm xạ, và hàng chục
người sẽ chết trong đau đớn. Đa phần các nạn nhân đều là lính cứu hỏa, sĩ quan
quân đội có mặt bảo vệ nhà máy theo lệnh. Họ không hề được thông báo gì về tình
hình thảm họa cũng như mối nguy chết người mà bản thân phải đối mặt.
Những nạn nhân này không có đủ thông tin để biết được
sự thật.
Trong khi những lãnh đạo của họ thì lại có dư
thông tin để giấu diếm sự thật.
Vì sao vậy?
Con người ở đâu cũng biết nói dối. Quan chức lãnh đạo
cũng là người, họ cũng biết nói dối.
Nhưng so với các đồng nghiệp ở những nơi khác, quan
chức trong thể chế độc tài có động cơ và điều kiện để nói dối cao
hơn hẳn.
Dân không trao cho họ quyền lực (chẳng ai bầu họ).
Ngược lại, họ giành giật quyền lực từ tay dân. Địa vị của các loại quan chức
này không đến từ dân, mà đến từ các “đồng chí” – những người “tin tưởng, đề bạt,
tiến cử và bổ nhiệm” họ.
Vì vậy trách nhiệm của họ (nếu có) chỉ là dành cho
những đồng chí, cấp trên của mình, những người sẽ quyết định chiếc ghế của họ
có vững hay không, sẽ được nâng lên hay đạp xuống.
Với bản chất đó của thể chế, các vị quan chức lãnh đạo
này không có bất kỳ động cơ nào để có trách nhiệm với người dân – những
người không có tiếng nói ảnh hưởng gì đến quyền lực của họ.
Và với thể chế độc tôn đó, khi thông tin bị bóp nghẹt,
họ lại càng có điều kiện để dối trên lừa dưới.
Không có tự do thông tin, không có báo chí điều tra,
không có hội đoàn độc lập, có bao nhiêu người có đủ năng lực, đủ dũng cảm và đủ
kiên trì để lật tẩy những lời dối trá của họ? Bạn có thể nhìn ra xung quanh, và
sau đó tự nhìn vào gương, để tìm câu trả lời.
Rất ít.
Canh bạc này vì vậy quá hời.
Sẽ luôn có những kẻ rớt đài, bị đưa lên thành ví dụ
để “đốn củi” hay “đả hổ diệt ruồi” nhằm xoa dịu lòng dân. Nhưng những kẻ không
may đó sẽ luôn luôn là thiểu số.
Các quan chức độc tài, mỗi khi nhìn xung quanh, thấy
tuyệt đại đa số đồng chí của mình đều đi lên từ dối trá, từ gian lận, từ
ăn cướp, họ tất nhiên sẽ nghĩ mình cũng thuộc nhóm đa số đó.
Có chí làm quan, có gan làm giàu là vậy.
Thiếu chí, họ đã không leo trèo được trên vai các đồng
chí của mình. Không có gan, họ đã không dám đánh cược với sự thật, huống hồ xác
suất trúng mánh lại quá hời như vậy.
Hiểu được bản chất của thể chế độc tài, người ta sẽ
không còn ngạc nhiên gì trước những lời dối trá, tiền hậu bất nhất, tự vả vào mặt
mình của các quan chức lãnh đạo tại đây.
Sự ngạc nhiên sẽ chỉ đến nếu trong cái thể chế lý tưởng
cho dối trá này, vẫn tồn tại những người nói thật và làm thật.
Những con virus chết người lây lan khắp nơi tất
nhiên là một chuyện không may. Nhưng đồng thời nó cũng là cơ hội để những người
sống trong các thể chế độc tài tự chất vấn mình.
Ta muốn tự do cho ai, virus hay con người?
Nội việc phải hỏi điều này đã là một chuyện có phần
bi hài.
Đến con virus nó cũng đâu cần phải có ai cho phép mới
tự do.
No comments:
Post a Comment