23/01/2020
Một bệnh nhân nhập viện ở Vũ Hán, Trung Quốc, ngày
17/1/2020. Ảnh: Getty Images
Sau hơn 40 ngày kể từ ca nhiễm bệnh đầu tiên được
công bố, dịch viêm phổi xuất phát từ Vũ Hán đã không còn có thể “nằm trong tầm
kiểm soát” như lời khẳng định chắc như đinh đóng cột được lặp lại nhiều lần của
các quan chức địa phương lẫn trung ương.
Một lệnh “phong
thành”, đóng cửa toàn bộ thành phố Vũ Hán, nội bất xuất kể từ 10 giờ sáng
giờ địa phương ngày 23/1/2020 được ban ra.
Nhiều người dân các nước được khuyến cáo nếu không cần
thiết, tuyệt đối không nên đến Vũ Hán, thậm chí là đi du lịch Trung Quốc vào thời
điểm này.
Vậy nhưng ở Đài Loan, hơn 80
người thuộc các đoàn du lịch bất chấp tất cả vẫn muốn tới Vũ
Hán chơi Tết như lịch đã lên từ trước.
Người Đài Loan vẫn còn chưa quên ấn tượng kinh hoàng
17 năm trước, khi đảo quốc trở thành một trong những khu vực bị ảnh hưởng nặng
nhất từ đại dịch SARS, vốn cũng xuất phát từ Trung Quốc.
Nhiều người vì vậy khi nghe tin có những đồng bào của
mình “vô tư” bất chấp cảnh báo vẫn muốn tới vùng dịch bệnh chỉ để đi chơi, đã
nói nửa đùa nửa thật,
rằng phải chi Đài Loan là một nước độc tài chuyên chế một chút, có thể cấm tiệt
luôn những người này đi thì đỡ lo biết mấy!
Tất nhiên đó chỉ là lời than thở đùa nhiều hơn thật.
Hơn ai hết, người Đài Loan hiểu rõ, tư duy quản lý độc
tài chuyên chế của người anh em khổng lồ Trung Quốc mới là thứ dịch bệnh đáng sợ
nhất.
Vào giữa tháng 2/2003, khi các quan chức tại thành
phố Quảng Châu công bố xuất hiện đại dịch SARS (Hội chứng viêm đường hô hấp cấp),
mọi nỗ lực liên lạc từ phía Đài Loan tìm hiểu chi tiết về dịch bệnh đều bị phía
Trung Quốc phớt lờ. Thậm chí Tổ chức Y tế Thế giới WHO cũng đặt Đài Loan ra
ngoài cuộc chơi, không hồi
đáp các yêu cầu hỗ trợ thông tin từ đảo quốc.
Mãi
đến khi hai trường hợp tử vong đầu tiên do SARS tại Đài Loan được xác
nhận, WHO, sau khi “xin phép” Trung Quốc, mới cử chuyên gia đến Đài Loan cùng hỗ
trợ đối phó dịch bệnh.
Kể từ khi thành công đá
chân Đài Loan ra khỏi Liên Hiệp Quốc từ năm 1971, Bắc Kinh đã liên tục
dùng mọi sức ép từ chính trị, kinh tế đến quân sự để cô lập đảo quốc này, hòng
khuất phục Đài Loan, buộc họ ngoan ngoãn “quay về” với đất mẹ.
Mưu đồ chính trị đó hoàn toàn có thể hiểu được (tất
nhiên chấp nhận hay không là việc khác). Nhưng khi đối mặt với đại dịch giết
người hàng loạt, việc nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn đặt tham vọng quyền lực lên
cao hơn tất cả nói lên rất nhiều điều về nhân tính, hay chính xác hơn, bản chất phi
nhân tính của chế độ này.
Sự thiếu vắng nhân tính càng hiện rõ hơn khi ta quan
sát cách các quan chức Trung Quốc đối phó với dịch bệnh trong nước.
Tháng 2/2003 các quan chức Quảng Châu công bố dịch bệnh
SARS, nhưng trên thực tế, từ trước đó ba tháng, ca bệnh đầu
tiên đã xuất hiện. Trong suốt thời gian trên, mọi thông tin về dịch bệnh
bị ém nhẹm. Thậm chí sau khi số ca nhiễm bệnh đã bùng nổ vượt tầm kiểm soát,
các quan chức địa phương lẫn trung ương vẫn khăng khăng “mọi thứ trong tầm kiểm
soát”, từ chối sự tham gia của các tổ chức quốc tế.
Cho đến khi dịch bệnh lan ra khắp thế giới, không thể
tiếp tục che giấu, bộ máy chính quyền Trung Quốc mới được tổng huy động để dập
lửa.
Giữa tháng 4/2003, năm tháng sau ca bệnh đầu tiên xuất
hiện, Bộ Chính trị, cơ quan đầu não của Bắc Kinh, mới ra tuyên bố “chiến tranh”
chống lại con virus SARS.
Vài ngày sau, số người nhiễm bệnh được Trung Quốc
công bố tăng gấp chín lần so với con số chính thức của ngày
hôm trước.
Từ một loại bệnh truyền nhiễm lẽ ra có thể khống chế
kiểm soát từ những ca phát hiện đầu tiên, SARS trở thành một nỗi ám ảnh gây hoảng
sợ cho nhiều người đến tận ngày nay. Hơn 8.000 ca nhiễm bệnh khắp
thế giới, trong đó có gần 800 người thiệt mạng. Thiệt hại kinh tế toàn
cầu ước tính gần 40 tỷ USD.
Gần hai thập kỷ trôi qua, nhiều người ngỡ rằng chính
quyền Bắc Kinh đã học được bài
học xấu hổ từ cơn đại dịch đầu tiên của thế kỷ 21.
Nhưng lịch sử có vẻ vẫn liên tục lặp lại.
Ngày 12/12/2019, ca bệnh “viêm phổi lạ” đầu
tiên được cơ quan chức năng thành phố Vũ Hán công bố (báo cáo mới nhất
lại chỉ ra rằng thực tế bệnh nhân này đã phát bệnh từ ngày 8/12/2019).
Mãi hai tuần sau, chính quyền Vũ Hán mới công bố
chính thức về dịch bệnh. Số người nhiễm bệnh lúc này được báo cáo là gần 30 người,
và mọi thứ “vẫn trong tầm kiểm soát”.
Những thông tin người dân đưa lên mạng về nguy cơ đại
dịch như SARS bùng phát trở lại bị chính quyền bác bỏ là “tin đồn vô căn cứ”.
Những người đưa tin đó bị cơ quan chức năng “xử lý theo đúng pháp luật”.
Gần hai tuần tiếp theo, ngày 13/1/2020, ca bệnh đầu
tiên được phát hiện tại Thái Lan. Vài ngày sau, đến lượt Nhật Bản báo cáo trường
hợp nhiễm bệnh.
Điều lạ lùng là tại Trung Quốc, số trường hợp nhiễm
bệnh đến thời điểm đó vẫn chỉ tập trung ở Vũ Hán.
Nhiều người dân Trung Quốc đã châm biếm gọi
con virus corona (nCoV) gây ra chứng viêm phổi lần này là “virus yêu nước” – chỉ
lây bệnh ra nước ngoài mà không lan ra địa phương khác trong nước.
Họ có lý do để nghi ngờ, vì Vũ Hán là một trong những
trung tâm giao thông vận tải lớn nhất nước. Thành phố này là đầu mối liên kết cả
từ Bắc đến Nam lẫn từ Đông sang Tây. Việc con virus bị chôn chân tại đây trong
khi bay ra được đến nước ngoài là chuyện không thể lý giải.
Chuyện không thể lý giải này chỉ có thể được giải
thích bằng một lý do duy nhất: các quan chức địa phương nói dối.
Đích thực ngay sau đó, lần lượt các địa phương trong
cả nước, từ Quảng Đông đến Bắc Kinh, từ Thượng Hải đến Trùng Khánh, đều xuất hiện
báo cáo số ca nhiễm bệnh.
Đồ thị theo dõi số
ca nhiễm bệnh viêm phổi corona tại Trung Quốc (đường màu đỏ) và khu vực khác
(đường màu cam). Nguồn: ABC News
Chỉ trong vài ngày, số ca
công bố nhiễm bệnh tăng vọt, từ hơn 60 người ngày 17/1 nhảy lên gần 440 người
vào ngày 22/1/2020, tăng gấp bảy lần.
Con số này chắc chắn
không dừng lại, đặc biệt khi dịch bệnh diễn ra trong bối cảnh Tết Nguyên đán tại
Trung Quốc, thời điểm diễn ra đợt
di cư lớn nhất thế giới mỗi năm.
Tất nhiên người ta không
thể đổ lỗi cho một quốc gia hay khu vực khi tại đó xuất hiện dịch bệnh. Trong rất
nhiều trường hợp, đây đều là những loại “thiên tai” bất khả kháng.
Nhưng cách người ta phản ứng
lại những thảm họa đó lại thể hiện rất nhiều điều về bản thân họ.
Có thể lấy Đài Loan làm
ví dụ.
Ngay khi ca bệnh corona đầu
tiên tại Đài Loan được phát hiện, Tổng thống Thái Anh Văn lập tức tổ chức họp báo chính
thức vào ngày 22/1/2020.
Bà công bố chi tiết từng
thông tin về ca bệnh, tình hình theo dõi đối với những người đi cùng có nguy cơ
lây nhiễm, cách thức chính phủ phối hợp hành động, các biện pháp được đưa ra,
những sự chuẩn bị nào đã và đang tiến hành, các vật tư (phòng bệnh, thiết bị y
tế, khẩu trang …) đã được đầu tư sẵn sàng ra sao.
Xuất hiện trong buổi họp
báo bên cạnh phó Tổng thống Trần Kiến Nhân, người vào thời điểm năm 2003 là Thứ
trưởng Bộ Y tế, trực tiếp chỉ huy chiến dịch ứng phó với SARS, bà Thái Anh Văn
khẳng định rằng đội ngũ chính quyền, bao gồm bản thân bà, vào 17 năm trước đã
có kinh nghiệm kiểm soát thành công đại dịch SARS và vì vậy, có đủ năng lực để
vượt qua cơn khủng hoảng mới này.
Bà cũng không quên cám ơn
và ghi nhận đóng góp của truyền thông báo chí trong trận chiến này. Nhờ vào
công sức lan tỏa của truyền thông, người dân Đài Loan sẽ biết sợ mà không hoảng,
không cần giành giật tranh nhau mua khẩu trang, biết chú ý giữ gìn vệ sinh, chủ
động theo dõi thông tin về dịch bệnh.
Trong khi đó, 40
ngày sau khi ca bệnh đầu tiên được công bố tại Vũ Hán, Chủ tịch Trung
Quốc Tập Cận Bình mới có phát ngôn chính thức, được công bố qua đài truyền hình
trung ương, yêu cầu toàn bộ hệ thống chính trị vào cuộc để “nghiêm túc” khống
chế dịch bệnh này.
Trong 40 ngày đó, những cảnh
báo đầu tiên về dịch bệnh có nguy cơ lây nhiễm rộng bị chụp mũ “phát tán tin đồn
vô căn cứ”, những thông tin về số ca nhiễm bệnh trên thực
tế vượt xa báo cáo chính thức bị âm thầm ém nhẹm, chuyên
gia y tế lên tiếng trấn an người dân rằng dịch bệnh “có thể kiểm soát”
lại trở thành nạn nhân bị nhập viện cách ly, còn “virus ái quốc” sau một thời
gian chỉ phát tán ra nước ngoài cuối cùng cũng bị phát hiện ở những vùng khác
trên cả nước.
Người dân Trung Quốc
trong khi đó, dưới bức màn sương mù kiểm duyệt thông tin, khi được hỏi về dịch
bệnh vẫn oang oang tự
hào “có đảng lo rồi, không phải sợ đâu”.
Sẽ không hoàn toàn chính
xác nếu cho rằng đây là lịch sử lặp lại.
Sự thật là, trong các chế
độ độc tài, khái niệm lịch sử không hề tồn tại.
Với tư duy độc tôn duy
ngã của họ, thời gian hoàn toàn đứng yên, sự thật không có chỗ tồn tại, chỉ có
những quả bóng dối trá được bơm phồng mãi mãi.
Trong chế độ độc tài đó,
quốc hội với các nghị gật đóng vai trò bù nhìn, truyền thông trở thành cái loa
tuyên giáo rỗng tuếch và trơ trẽn, các tổ chức xã hội dân sự bị bóp nghẹt, lại
không có một lực lượng đối lập nào kiểm soát theo dõi, những quan chức chính
quyền hoàn toàn không thấy áp lực gì phải làm người tử tế, chưa nói đến trách
nhiệm với người dân.
Họ chỉ thấy có trách nhiệm
với cấp trên của mình.
Vì thế đến tận khi rớt
đài, đứng trước vành móng ngựa, đối tượng duy nhất họ cảm thấy cần phải vuốt ve lấy
lòng vẫn chỉ có “Đảng và bác”.
Những loại dịch bệnh chết
người như SARS và corona không phải là trường hợp đơn lẻ làm phát lộ bản chất của
chế độ quản lý độc tài.
Các quan chức Trung Quốc
trong một thời gian dài vẫn liên tục giấu
dịch tả heo châu Phi, luôn miệng khẳng định nó “nằm trong vòng kiểm
soát”, và chụp mũ những
ý kiến chất vấn là “đồn nhảm ác ý”.
Hay trong trận động đất
kinh hoàng ở Tứ Xuyên vào năm 2008, báo chí bị chỉ
đạo phải ngậm miệng không được nhắc đến scandal về việc các ngôi trường
được xây dựng với “chất lượng đậu hũ”, dễ dàng đổ sập chôn vùi các em học sinh.
Mỗi một biến cố khủng hoảng
là một lần chiếc mặt nạ đẹp đẽ của chính quyền bị kéo tuột.
Sau nhiều thập niên “cải
cách”, mà về bản chất đó chỉ là hành động cởi trói người dân,
các thành tựu phát triển kinh tế đã tạo ra một ấn tượng sai lầm về một “mô hình
quản lý ưu việt” của các chính quyền cộng sản.
Thứ thể chế độc tài này
đúng là ưu việt ở một điểm: nó tối ưu hóa động cơ để những người tham gia trong
guồng máy tổ chức đó tìm mọi cách nhằm dối trên lừa dưới, bất chấp tất cả để giữ
ghế, dùng mọi thủ đoạn để thu cùng vét tận.
Hơn tất cả những loại dịch
bệnh, đây mới chính là thứ đại dịch lớn nhất, nguy hiểm nhất và hết thuốc chữa
trong lịch sử nhân loại.
Những ai vẫn ôm mộng nuôi
lấy thứ dịch bệnh đó chính là những kẻ “phản động”, theo nghĩa nguyên thủy nhất
của từ.
Những tâm hồn bệnh hoạn
luôn bị ám ảnh bởi quyền lực độc tôn, chây ì kéo lùi lịch sử tiến bộ của nhân
loại.
No comments:
Post a Comment