Phản ứng tự nhiên của một người sinh ra và lớn
lên trong một nền giáo dục không có nhiều chọn lựa là chấp nhận nó theo kiểu “nắng
mưa là bệnh của trời”, trong lúc những người lớn lên trong một nền giáo dục tự
do là phản kháng nó.
Những phản kháng của sinh viên có sự ủng hộ của
nhiều nhà giáo Pháp mùa hè năm 1968 được xem như là một cuộc cách mạng dân sự
(civil revolution) vì làm lung lay chính quyền của tổng thống De Gaulle. TT De
Gaulle sợ đến nỗi ông định di tản ra khỏi Élysée Palace để sinh viên không có
lý do tàn phá cung điện lịch sử này. Các phản kháng của sinh viên, nghiệp đoàn
lao động, giáo chức Pháp mang tính tả khuynh vẫn là các tổ chức xã hội dân sự
trong một xã hội dân chủ.
Dưới chế độ CS thì khác. Các hội chuyên nghiệp
được lập ra không phải là để hoạt động, phát triển, tương thân tương trợ giữa
những người cùng nghề nghiệp mà để cho đảng dễ kiểm soát.
Hội Nhà Giáo cũng trong cùng số phận và được
chỉ đạo chặt chẽ từ trên cấp trung ương đến từng trường học, từng tổ giảng dạy.
Tinh thần “Tôn sư trọng đạo”, “kỹ sư tâm hồn” chỉ là những mỹ từ làm mát lòng
các thầy cô.
Nội
dung Ngày Nhà Giáo Việt Nam
Tại Việt Nam, ngày 20 tháng 11 được đảng chọn
làm Ngày Nhà Giáo Việt Nam. Ngày này, từ nguồn gốc đến nội dung và ý nghĩa đều
mang tính CS.
Hai mệnh đề chính giải thích nội dung hoàn
toàn có tính cách chính trị và đấu tranh giai cấp của ngày Nhà Giáo Việt Nam do
đảng đưa ra:
(1) – “Đấu tranh chống mọi quan điểm và
phương pháp giáo dục lạc hậu, phản động, phản dân chủ, phản khoa học của nền
giáo dục tư sản, phong kiến nhằm xây dựng nền giáo dục tiến bộ, dân chủ và khoa
học.”
(2) – “Trong những năm kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, Công đoàn Giáo dục Việt Nam đã liên hệ với FISE với mục đích
tranh thủ các diễn đàn quốc tế, tố cáo âm mưu tội ác của bọn đế quốc xâm lược đối
với nhân dân ta cũng như đối với giáo viên và học sinh. Đồng thời, giới thiệu
những thành tích của nền giáo dục cách mạng, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của
toàn thể giáo viên trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân
dân ta.”
Nguồn gốc
CS của FISE
Trong nội dung của Bộ Giáo Dục Việt Nam có nhắc
đến tổ chức FISE theo tiếng Pháp của Fédération Internationale Syndicale des
Enseignants (Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo viên) và xem đây là nguồn gốc
dẫn đến Ngày Nhà Giáo Việt Nam.
Nhắc lại, những thập niên đầu của thế kỷ hai
mươi hàng loạt các tổ chức giáo dục quốc tế được ra đời như Ủy Ban Quốc Tế của
các Liên Đoàn Giáo Chức Quốc Gia trong Hệ Thống Trung Học (FIPESO) được thành lập
tại Bỉ năm 1912, Liên Đoàn Thế Giới các Hội Giáo Dục Thế Giới (WFEA) thành lập
tại San Francisco năm 1923 v.v..
Sau Thế chiến Thứ Hai, với sự bành trướng của
Liên Sô sang Đông Âu, sự phân cực về ý thức hệ CS và Tự Do rõ nét và điều này
cũng ảnh hưởng đến các tổ chức lao động, giáo dục trước đây hoạt động độc lập.
Được thành lập tại Paris, năm 1946, FISE là
chữ viết tắt của tổ chức nhà giáo quốc tế có tên là Fédération Internationale
Syndicale des Enseignants hay tiếng Anh là World Federation of Teachers’ Unions
(Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo viên).
Giống như một số tổ chức lao động khác, FISE
bị CS khuynh loát.
Tài liệu “Facts about International Communist
Front Organizations” công bố tại Mỹ năm 1957 tiết lộ FISE là tổ chức ngoại vi
CS và hoàn toàn bị chi phối bởi Đệ Tam Quốc Tế CS.
Chủ tịch đoàn của FISE do các đảng viên CS quốc
tế hay các nhà trí thức thân cộng sản điều khiển.
Ban lãnh đạo của FISE, sau khi tái tổ chức
năm 1949, do các đảng viên CS khắp nơi trên thế giới điều hành như Antonio
Banfi, Thượng Nghị Sĩ đảng viên CS Ý, Fan Ming, đảng viên đảng CS Trung Quốc,
Cesar Godoy Urrutia, đảng viên đảng CS Chile v.v..
FISE không phải là thành viên của UNESCO và
chỉ gián tiếp có quan hệ với UNESCO qua trung gian của Liên Hiệp Công Đoàn Thế
Giới (World Federation of Trade Unions) gọi tắt là WFTU, trong đó FISE là thành
viên.
Không phải chỉ thời kỳ phong trào CS còn mạnh
mà ngay cả ngày nay, WFTU vẫn còn khống chế bởi tư tưởng và đảng viên CS. Các
thành viên WFTU tham gia trong cuộc biểu tình mừng “Cách mạng Tháng Mười Vĩ Đại”
tại Nga ngày 7 tháng 11, 2017 vừa qua.
Đương kim chủ tịch của WFTU là George
Mavrikos, lãnh tụ đảng CS Hy Lạp.
Ngày
Nhà Giáo Thế Giới Liên Hiệp Quốc
Ngày
Nhà Giáo Thế Giới do UNESCO quy định là ngày 5 tháng 10 và tuyên bố lần đầu năm
1994.
UNESCO chọn 5 tháng 10 để vinh danh ngày công
bố Đề Nghị liên quan đến Định Chế của các Nhà Giáo (Recommendation concerning
the Status of Teachers) được công bố vào ngày 5 tháng 10, 1966 do sự phối hợp của
hai tổ chức UNESCO và ILO.
ILO là tên viết tắt của International Labour
Organization (Tổ Chức Lao Động Quốc Tế.) Tổ chức này được thành lập năm 1919 với
ý nguyện đoàn kết các lực lượng lao động để theo đuổi nền hòa bình lâu dài cho
thế giới. Đây là tổ chức chuyên nghiệp đầu tiên hoạt động trong khuôn khổ của
Liên Hiệp Quốc từ ngày thành lập năm 1946 và có 187 quốc gia hội viên.
Không giống WFTU Cộng Sản, ILO là một tổ chức
độc lập với một lịch sử lâu đời. Ngay cả CSVN cũng đã gia nhập ILO năm 1992 và
văn phòng của ILO tại Việt Nam bắt đầu hoạt động vào năm 2003.
Một số quốc gia ủng hộ quyết định của Liên Hiệp
Quốc nên dù có ngày khác họ cũng đổi sang ngày 5 tháng 10 như trường hợp
Canada, Đức, Armenia, Azerbaijan, Bangladesh, Bulgaria, Cameroon, Lithuania,
Macedonia, Pakistan, Philippines, Nga, Serbia v.v..
Lưu ý, nhiều nước cựu CS như Nga, Bulgari,
Serbia, các nước Baltics đều đổi sang ngày do UNESCO công bố.
Việt
Nam là nước duy nhất chọn ngày do tổ chức Cộng Sản quốc tế ấn định.
Bảng tổng kết Ngày Nhà Giáo thế giới viết về trường hợp Việt Nam: “Lễ Ngày Nhà
Giáo có nguồn gốc trong một hội nghị giữa các nhà giáo trong khối CS được tổ chức
tại Warsaw 1957.”
Người viết tin rằng phần lớn những người làm
nghề giáo tại Việt Nam không biết ý nghĩa thật sự của Ngày Nhà Giáo và dù biết
họ cũng không mấy quan tâm. Với họ đó chỉ là ngày truyền thống, ngày để được tặng
hoa, được nghe lời cám ơn.
Thật khó trách, sống trong guồng máy phải cuốn
theo guồng máy và dần dần yêu nó. Erich Maria Remarque viết trong tiểu thuyết của
ông “hạnh phúc bắt đầu từ thói quen”, tuy nhiên, lịch sử không chuyển động theo
thói quen mà theo lẽ phải.
_____
Tham khảo:
– Tài liệu “Facts about International
Communist Front Organizations”, 1957
– Victor Yves Ghébali, Roberto Ago, Nicolás
Valticos, The International Labour Organisation: A Case Study on the Evolution
of U.N pp 33 – 45
– World Federation of Trade Unions: What it
is and what it wants, Ideological and Political issues of the International
Trade Union Movement, 16 Speeches – by the General Secretary, First Edition –
2013, Printed in Johannesburg, South Africa.
– The ILO/UNESCO Recommendation concerning
the Status of Teachers (1966) and The UNESCO Recommendation concerning the
Status of Higher-Education Teaching Personnel (1997), Copyright © United
Nations Educational, Scientific and Cultural Organization and International
Labour Organization 2008
– Website of World Federation of Trade
Unions http://www.wftucentral.org
– Website of UNESCO (https://en.unesco.org)
– Website of ILO (http://www.ilo.org)
– The ILO in Viet Nam (http://www.ilo.org/…/…/documents/publication/wcms_470847.pdf)
– List of Teachers’ Days https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Teachers%27_Days
---------------------------------
GIÁ TRỊ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
Từ 1954 tại miền Bắc và sau 1975 trên phạm vi
cả nước, bộ máy tuyên truyền của đảng CS đã không ngừng vẽ trong nhận thức của
bao nhiêu thế hệ Việt Nam một VNCH chẳng khác gì một con ma, ghê sợ, hung dữ và
tội lỗi nhất trong thế gian này. VNCH là hiện thân của mọi thứ tội ác. Trong nhận
thức không chỉ tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ,
đảng viên, nhà văn, nhà thơ thì VNCH có ba đặc điểm lớn là “tham nhũng”, “trấn
áp” và “ôm chân đế quốc Mỹ”.
Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên
Talawas hơn mười năm trước người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại
miền Nam. Xin trích một phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa
đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Có.
Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không?
Có.
Miền Nam trước 1975 có lệ thuộc vào viện trợ
Mỹ không? Có.
Nhưng các đặc điểm đó có đại diện cho Việt
Nam Cộng hoà (VNCH) không? Không.
Cho đến nay, một số người hoặc vì không có cơ
hội nghiên cứu sinh hoạt chính trị tại miền Nam, không phân biệt được sự khác
nhau giữa chính quyền và chế độ chính trị hoặc vì nghe riết những lời tuyên
truyền của đảng đến độ nhập tâm, đã đồng hoá chính quyền của các ông Ngô Đình
Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh với VNCH.
Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu
của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH không nằm trong tham
nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một
thể chế dân chủ do dân và vì dân.
Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc
hội Lập hiến Phan Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một
chế độ cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền
thuộc về toàn dân” phát xuất từ:
“Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến
lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng
lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để
thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn
kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng,
bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.”
Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên
chở trong suốt 9 chương và 117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng
hòa, qua đó, quyền lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền
rõ rệt: ”Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân
quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều
hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ
và Công bằng xã hội”.
Hiến pháp 1967 tốt đẹp đến nỗi ông Lý Quý
Chung, trong Hồi ký không tên, xuất bản tại Sài Gòn trước ngày ông qua đời, dù
chê bai các chính quyền miền Nam tàn tệ, cũng không thể nói xấu bộ luật tối thượng
của chế độ cộng hoà như một diễn đàn để ông ta thực thi dân chủ: “Quốc hội lập
hiến kéo dài một năm đã cung cấp cho tôi một môi trường học tập đấu tranh chính
trị tại nghị trường và từ diễn đàn này, tôi cũng có cơ hội bày tỏ công khai qua
mạng lưới báo chí Sài Gòn các quan điểm của mình đối với chính quyền, đối với
các vấn đề dân chủ, chiến tranh, hoà bình v.v…”
Về căn bản, không có nhiều khác biệt giữa Hiến
pháp VNCH 1967 và Hiến pháp Nam Hàn 1948 được tu chỉnh lần cuối vào năm 1987. Cả
hai hiến pháp đều dựa trên chế độ cộng hoà, phân quyền rõ rệt, thích hợp với đà
tiến hoá của văn minh nhân loại.
Dân chủ không phải là món quà của ông thần
tài đem đặt ngay trước cửa nhà mà là chiếc máy lọc từ nước đục sang nước trong,
từ phong kiến lạc hậu đến văn minh tiên tiến, và trong quá trình đó hai quốc
gia VNCH và Nam Hàn, đều phải trải qua những kinh nghiệm máu xương trên con đường
dân chủ hoá đất nước. Giống như người dân Nam Hàn, người dân miền Nam Việt Nam
cũng vừa học dân chủ và vừa tập sống dân chủ với tất cả những khó khăn thử
thách.
Điểm khác nhau chính giữa Nam Hàn và Nam Việt
Nam là cơ hội.
Nam Hàn có cơ hội để biến những ước mơ của
dân tộc Triều Tiên gói ghém trong hiến pháp của họ để ngày nay là nước giàu mạnh
nhất nhì châu Á. Miền Nam Việt Nam thì không. Chế độ cộng hoà tại miền Nam Việt
Nam ra đời và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các
nguyên tắc dân chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai lưỡi
đó đã đâm vào thân thể của chế độ cộng hoà hàng trăm vết thương đau đớn từ ngày
mới ra đời cho đến gục xuống trong tức tưởi.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ
cũng phải bước qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay.
VNCH cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị
nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều
phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng
cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính
khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính.
Nếu trước 1975, vì thiếu cái nhìn về cả hai
bên của cuộc chiến và bất mãn trước xã hội nhiễu nhương, việc kết án chính quyền
là “trấn áp” có thể còn thông cảm được, thế nhưng sau 42 năm sống dưới chế độ độc
tài đảng trị vẫn có kẻ biện minh cho hành động đốt xe, bắt cóc, ném bom xăng
vào thương xá, ném lựu đạn vào nhà hàng ăn uống trước đây thì quả thật là vô cảm.
Đặc điểm thứ ba đảng tuyên truyền là miền Nam
chỉ biết “ôm chân Mỹ”.
Thật mệt mỏi nếu lại phải lần nữa đem so sự lệ
thuộc vào Mỹ của chính quyền miền Nam và sự lệ thuộc vào Liên Xô, Trung Cộng của
đảng CSVN và cũng chẳng sướng ích gì khi phải đọc lại bảng kê khai vũ khí, quân
trang, quân dụng mà hai đế quốc cộng sản đổ xuống Việt Nam.
Cho dù sự lệ thuộc vào cường quốc là điều
không tránh khỏi trong thế giới phân cực của thời kỳ Chiến tranh Lạnh vừa qua
thì chọn lựa cường quốc nào sẽ mang lại nhiều lợi ích cho đất nước hơn?
Lịch sử đã chứng minh một cách hùng hồn, hầu
hết các nước chọn lựa hay do điều kiện chính trị thế giới đẩy đưa, đã đứng về
phía tự do dân chủ như Nhật Bản, Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ
v.v. đều trở nên các quốc gia ổn định và phát triển nhờ chính sách đối ngoại
thân Mỹ một cách khôn khéo, trong lúc các nước theo chân Liên Xô, Trung Cộng như
Bắc Việt, Cu Ba, Bắc Hàn thì kết quả ra sao không cần phải phân tích.
Không ai từng chống Mỹ quyết liệt hơn cố tổng
thống Anwar Sadat nhưng để mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân Ai Cập, năm 1976, ông
đã bỏ đồng minh Liên Xô để bước sang phía thế giới tự do cho dù ông biết trước
sự chọn lựa đó có thể trả giá bằng nhiều rủi ro như ông tiên đoán trong diễn
văn đọc trước Quốc hội Israel ngày 20 tháng 11 năm 1967.
Một số người có thể cho rằng Hiến pháp VNCH
cũng do người Mỹ nhúng tay vào. Dù điều đó đúng thì đã sao. Hiến pháp của quốc
gia Nhật Bản hiện đại cũng do bàn tay của Mỹ nhưng ngày nay tướng McArthur chẳng
những không bị oán ghét mà còn được nhân dân Nhật xem như là một trong những
người có công lớn trong việc xây dựng nước Nhật hiện đại.
Dân chủ là một kỳ quan được nhân loại bồi đắp
qua nhiều thời đại chứ không phải là tài sản riêng của quốc gia nào.
Học hỏi cái hay cái đẹp của các nước tiên tiến
để áp dụng vào cuộc cách mạng dân tộc và phát triển đất nước như cụ Phan Chu
Trinh từng thống thiết kêu gào gần trăm năm trước, luôn luôn là điều đáng khuyến
khích.
Phân tích để thấy, chế độ cộng hoà tuy không
còn hiện diện tại miền Nam nhưng các giá trị dân tộc, nhân bản và khai phóng thể
hiện trong Hiến pháp VNCH vẫn còn đó. Gia tài quý giá đó chẳng những không rã mục
theo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, Dương Văn Minh mà ngày nay đã vượt ra khỏi
biên giới Bắc Nam để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc.
Nếu ai cho người viết cường điệu hãy tạm gác
qua bên các định kiến Bắc Nam, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả
khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng
hoà trên trang đầu của Hiến pháp mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung của
Hiến pháp VNCH 1967 thôi, người đọc sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc
Việt Nam cần phải đạt đến.
Việc lặp lại những lời tuyên truyền cũ mèm của
đảng cho rằng chế độ cộng hoà tại miền Nam là “sản phẩm do chính quyền Mỹ tạo
ra trong Chiến tranh Lạnh” chẳng khác gì chê lớp rong rêu ngoài vỏ một con
trai.
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng
là một văn kiện tham khảo cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh.
Hạt giống dân chủ khơi mầm tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước
bị chia đôi mà đã có từ hàng trăm năm trước.
Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực
dân, các nhà cách mạng tại miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu
tranh nghị trường, tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí
làm nền tảng cho chế độ cộng hoà sau này.
Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là
vốn quý của dân tộc đã được đổi bằng mồ hôi nước mắt của nhiều người. Những ai
biết gạt bỏ định kiến Bắc Nam, gạt bỏ lòng “căm thù Mỹ Ngụy”, sẽ thấy đó chính
là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn
cho các thế hệ mai sau.
Tiếc thay, viên ngọc và viên sỏi khác nhau
khi nằm trong tay người thợ bạc nhưng lại giống nhau khi nằm trong tay mấy cậu
bé bắn chim.
Do đó, phục hưng VNCH không có nghĩa là phục
hưng chính quyền miền Nam. Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do
đó không sống hay chết theo một chính quyền.
Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của
bao nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng
chung cho cả dân tộc.
Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn
cuộn lúc âm thầm, có chỗ sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy.
Đó là sự thật. Khoảng thời gian từ khi Mã Viện,
danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh
bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân (năm 543) là tròn 500 năm. Biết bao
nhiêu lớp người đã sinh ra và chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối
nô lệ nhưng sức sống Việt Nam vẫn tồn tại và lớn lên.
Đối mặt với một kẻ thù Trung Cộng đông hơn
nhiều và mạnh hơn nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt
trong nước và 3 triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay.
Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên
cơ chế dân chủ tự do mới mong thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm
lược Việt Nam. Tổ tiên Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay
cũng sẽ làm được.
Người viết biết rằng, đối với một số người Việt
đã bị bộ máy tuyên truyền đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn
trong hệ thống giáo dục một chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một
quá trình đấu tranh tư tưởng khó khăn.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà
hãy nhìn thẳng vào thực tế đất nước sau 42 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt
từ kinh tế, chính trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở
châu Phi như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng
hãnh diện vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà
hãy nhìn vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của
lãnh đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc như kinh nhật tụng họ không có và
cũng không thể có một chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một
nhóm người cầm quyền được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước.
Sau mỗi cơn giận hờn, lãnh đạo CSVN lại lên đường
sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh
em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi
ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân
Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy.
Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc
hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong
bang giao quốc tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai còn do dự, còn một
chút tin tưởng nào đó ở lãnh đạo đảng CSVN.
Giống như hầu hết các nước cựu CS ở Đông Âu
và khối Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt khoát.
Các quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc
tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị Việt
Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức hệ CS.
Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để
phát triển thành một quốc gia hiện đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng.
Các nhà lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh mới
trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư cách của một cấp lãnh đạo
chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất, dân chủ, độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu
chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là
một cuộc tranh đấu gian nan, gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan
và chủ quan, nhưng chính nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.
Trần Trung Đạo
No comments:
Post a Comment