Nguyễn Ngọc Chu - Văn hóa Nghệ an
Chủ nhật, 16 Tháng 12 2018 20:36
LỜI
TÒA SOẠN: “Lò” đang nóng, đang cháy rực. Công cuộc chống tham
nhũng, chỉnh đốn lại Đảng, cải cách thể chế đang giai đoạn quyết liệt, những kết
quả đầu tiên đã đem lại nhiều hy vọng cho đông đảo các tầng lớp nhân dân. Để tiếp
tục nhen nhóm niềm tin vào Đảng, vào sự chấn hưng của đất nước, là lẽ thường,
chúng ta cần nhìn nhận đúng thực trạng của đất nước để cùng nhau tìm ra con đường
và đi tới văn minh, hạnh phúc.
Trên tinh thần đó, VHNA đã có cuộc trao đổi với TS
toán học Nguyễn Ngọc Chu đến từ Viện toán học, Viện hàn lâm khoa học và công
nghệ Việt Nam.
*
Phan
Văn Thắng: Với tư cách một trí thức, một nhà toán học, điều anh
quan tâm nhất về đất nước hiện nay là gì? Vì sao?
TS
Nguyễn Ngọc Chu: Thông thường, những người làm
công tác nghiên cứu khoa học, nhất là nghiên cứu khoa học tự nhiên – như toán học,
chỉ chú trọng đến chuyên môn mà ít quan tâm đến những vấn đề khác. Đối với họ,
các vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị chẳng hạn, không làm họ bận tâm và mất
nhiều thời gian.
Nhưng hoàn cảnh hiện nay thì rất khác biệt. Đến những
người thờ ơ nhất cũng phải quan tâm. Tại sao ư? Theo tôi, là do những nguyên
nhân chính sau đây.
Điều
đầu tiên là xã hội đang bị băng hoại nghiêm trọng
Tham nhũng, hối lộ đã trở thành dịch bệnh trong mọi
lĩnh vực, từ chính trị cho đến kinh tế, từ giáo dục cho đến y tế, từan ninh cho
đến quốc phòng… và ở mọi địa phương, từ thôn xã cho đến tỉnh thành, từ cấp
chính quyền thôn cho đến cấp chính phủ. Vì thấy được sự nguy hiểm của quốc nạn
tham nhũng mà Đảng và Chính phủ đang tiến hành chiến dịch chống tham nhũng.
Cùng với tham nhũng là sự tung hoành của lừa đảo, giả
dối. Lừa đảo để chiếm đoạt tiền bạc, tài sản. Lừa đảo để bán hàng giả, hàng
nhái, hàng độc hại. Lừa đảo để có được bằng cấp, chức quyền… Còn nhiều nhân tố
khác nữa thể hiện sự băng hoại nghiêm trọng của xã hội mà không đủ chỗ để liệt
kê ở đây.
Khi xã hội bị băng hoại thì các giá trị đạo đức nền
tảng xây đắp từ ngàn đời của Dân tộc bị phá hủy, làm lâm nguy đến sự trường tồn
của Dân tộc. Ở mặt khác, xã hội bị băng hoại thì nền pháp chế bị sâu mọt, không
thể thực thi đúng chức năng. Do đó quốc gia không thể phát triển đúng theo quỹ
đạo, nên không thể hùng mạnh.
Xã hội băng hoại đưa đến hai hậu quả vô cùng nguy hiểm:
Hủy hoại sức sống của Dân tộc và Cản trở sự hùng cường của Đất nước.
Điều
thứ hai là sự bất công đang bùng phát ngày càng rộng lớn
Sự bất công dung túng pháp luật dẫn đến oan trái, cướp
bóc. Sự bất công mở rộng khoảng cách giàu nghèo. Sự bất công thao túng quyền lực
đưa đến quyền lực vô pháp.
Kết quả là sự bất công hủy hoạisự phát triển nhân
văn. Nhân văn bị trói buộc thì con đường tiến lên văn minh của Dân tộc bị kìm
hãm.
Một xã hội không công bằng thì không thể là một xã hội
nhân văn. Không nhân văn thì không thể theo kịp nhóm các quốc gia tiên phong của
nhân loại.
Điều
thứ ba là môi trường sống bị ô nhiễm đến nguy hiểm
Chưa bao giờ chúng ta phải sống trong một môi trường
nguy hiểm như hôm nay. Ô nhiễm môi trường không những hủy diệt con người mà còn
hủy diệt cả cá tôm, chim muông, không những hủy diệt động vật mà còn tàn phá cả
thực vật.
Ô nhiễm môi trường nghiêm trọng không chỉ hại cho
chúng ta mà nguy hiểm hơn là có hại cho con cháu chúng ta. Để lại môi trường sống
nguy hại cho nhiều đời con cháu mai sau là tội vô cùng lớn.
Điều
thứ tư là chứng cớ đất nước ngày càng tụt hậu so với các nước tiên phong
Không thể so sánh với quá khứ của chính mình để tự
an ủi chúng ta tiến bộ. Không thể so sánh với năm 1945 để khẳng định chúng ta
không chết đói.
Hãy so sánh với các nước bên cạnh để thấy sự tụt hậu
của chúng ta.GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.052 USD,
chỉ tương đương mức GDP bình quân của Malaysia năm 1998, của Thái Lan năm 1993,
Indonesia năm 2008, Philippines năm 2010 và Hàn Quốc năm 1982. GDP bình quân đầu
người của Việt Nam năm 2017 của Việt Nam là 2343 USD, của Singapore là 57714
USD. Giả thiết GDP Việt Nam tăng 7% năm thì sau 28 năm đến năm 2045 GDP theo đầu
người của Việt Nam chỉ là 15 578 USD. Vậy đến bao giờ thì chúng ta mới tiến gần
được Singapore?
Ở mặt khác, thử hỏi những tiện nghi hiện đại mà
chúng ta có, như ô tô, máy bay, hay công nghệ hình ảnh qua iphone máy tính bảng…
thì nhờ ai mà có? Toàn của nước khác.
Điều đó có nghĩa là chúng ta đang cải thiện đời sống
chúng ta cơ bản nhờ vào tiến bộ của nước khác. Và như vậy nếu không thay đổi để
thích nghi kịp thời thì chúng ta ngày càng tụt hậu.
Nguy hiểm hơn nữa là chúng ta không chịu nhìn thấy lối
thoát.Chúng ta chỉ ngồi chờ kêu gọi đầu tư nước ngoài với những ‘hạ giá vượt trội’
phẩm giá của chính chúng ta.
Điều
thứ năm là gia tăng sự lệ thuộc về kinh tế
Chúng ta chứng kiến Đất nước đang quá phụ thuộc vào
nước ngoài. Lại phụ thuộc nhiều nhất vào Trung Quốc. Từ sự phụ thuộc kinh tế,
theo quy luật và kinh nghiệm cho thấy, sẽ dễ dẫn đến sự phụ thuộc chính trị.
Chúng ta chịu hai gọng kìm lệ thuộc. Gọng kìm lệ thuộc
từ nước ngoài, trong đó nhất là áp lực từ nước láng giềng Trung Quốc ngày càng
gia tăng. Đau đớn nữa là từ gọng lìm lệ thuộc của chính chúng ta, khi ta tự
trói buộc vào những thứ khác… của nước ngoài.
Đây là điều day dứt đến đớn đau của trí thức.
Trí thức đích thực không màng đến danh lợi, quyền lực.
Càng không chịu bị nô lệ bởi quyền lực và danh lợi. Đối với họ, tri thức là bá
chủ.
Bởi thế, họ không thể chịu sự nô lệ của bất kỳ ai,
càng không thể là nước ngoài. Chỉ chịu sự nô lệ duy nhất trước tri thức.
Điều
thứ sáu là sự an ninh của Tổ Quốc bị xâm phạm
Chúng ta chứng kiến Tổ Quốc đã mất đi một phần biển
đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa. Chúng ta nhìn thấy an ninh của Tổ Quốc ngày càng bị
nhiều thế lực nước ngoài nhòm ngó can thiệp.
Đây là điều lo lắng nhất của mọi người dân Việt Nam.
Không chỉ trí thức, mà khiến cho những người thờ ơ nhất cũng phải động tâm.
Bởi thế mà chúng ta quan sát thấy, chưa bao giờ phụ
nữ nước ta lại quan tâm đến chính trị như bây giờ. Từ người phụ nữ nội trợ, người
phụ nữ bán nước vỉa hè, cho đến cán bộ phụ nữ nghỉ hưu, từ miền xuôi cho đến miền
ngược, từ trong nước cho đến kiều bào nước ngoài,đâu đâu cũng thấy phụ nữ Việt
bàn về chính trị Đất nước.
Không phải họ muốn tranh dành quyền lực. Mà bởi họ
không muốn mất đi những người con. Bản năng bảo vệ con đã khiến cho phụ nữ Việt
Nam cảm nhận được sự đe dọa mất nước. Họ tự nguyện dâng hiến con vì Vệ Quốc. Những
giọt nước mắt tiễn con ra trận, đời này sang đời khác,tích tụ mà thành tính di
truyền trong máu mỗi người mẹ Việt Nam. Hơn ai hết, họ cảm nhận được sự đe dọa
gia tăng mỗi khi Tổ Quốc gần đến lâm nguy.
Không phải chỉ trí thức. Không phải chỉ nam giới.
Đây là thời kỳ đặc biệt mà số đông phụ nữ Việt đã tự nguyện lo lắng về chính trị
Đất nước.
*
Phan
Văn Thắng: Chưa tiện bàn về những vấn đề chính trị lớn lao, tôi
muốn chúng ta bắt đều từ những vấn đề cụ thể hơn. Chuyện giàu nghèo chẳng hạn.Ông
thử mổ xẻ câu chuyện giàu nghèo từ các góc độ, về tầng lớp nhà giàu thời nay?
Phần nhiều họ giàu từ đâu? Bằng cách gì?Tôi thấy bây giờ có quá nhiều trọc phú.
Ông có nghĩ vậy không? Tại sao?
TS
Nguyễn Ngọc Chu: Đây là những vấn đề rộng lớn.
Không thể trình bày toàn diện ở đây. Chỉ xin đề cập đến một số điểm góc cạnh.
Thứ nhất, không cho dân giàu hay cào bằng tất cả đều
nghèo khó, là các chính sách đi ngược lại lợi ích của dân, của nước
Năm 1923 Tưởng Giới Thạch được Tôn Trung Sơn phái
sang Liên Xô để nghiên cứu về Liên Xô nhằm áp dụng ở Trung Quốc. Về nước, Tưởng
Giới Thạch báo cáo với Tôn Trung Sơn rằng ở Liên Xô không cho phép dân làm giàu
và không ủng hộ mô hình Liên Xô. Bởi thế sau khi Tôn Trung Sơn mất năm 1925,
lên nắm quyền, Tưởng Giới Thạch quay sang đàn áp đảng cộng sản, đẫm máu là cuộc
thanh trừng lịch sử : “Chính biến Thượng Hải’ năm 1927.
Tục ngữ Việt Nam có câu ‘Dân giàu nước mạnh’. Không
cho dân giàu hay cào bằng làm tất cả cùng nghèo khó, đều là các chính sách chống
lại lợi ích của dân của nước.
Thứ hai, cơ chế khác nhau đẻ ra tầng lớp người giàu
khác nhau. Người giàu là sản phẩm phản ánh cơ chế
Các nhà khoa học Liên Xô rất giỏi. Họ chế tạo ra tàu
vũ trụ, tên lửa đạn đạo, máy bay, máy tính điện tử… vậy mà không ai trở thành
người giàu. Trong khi đó thì Bill Gatetrở thành tỷ phú.
Ấy là vì cơ chế của Mỹ biến các nhà sáng chế thành
người giàu, còn cơ chế của Liên Xô thì không. Nếu Bill Gate ở Liên Xô thì chắc
chắn ông cũng không giàu – giống như các nhà khoa học Liên Xô mà thôi.
Nước ta từ sau đại hội VI năm 1986, bắt đầu cho người
dân làm giàu. Nhưng cơ chế của ta đẻ ra tầng lớp người giàu khác xa với tầng lớp
người giàu của các nước Đức, Nhật, Mỹ.
Bill Gate trở thành tỷ phú vì sáng chế của ông được
chuyển thành sản phẩm thương mại. Những ai dùng phần mềm Micrsoft (chẳng hạn)
thì phải trả tiền. Luật pháp Mỹ bảo hộ điều đó. Không chỉ ở nội địa, mà luật
pháp Mỹ bảo hộ bản quyền sáng chế ra ngoài biên giới nước Mỹ. Trong chiến tranh
thương mại Mỹ – Trung, một điểm mấu chốt không khoan nhượng của Mỹ là Trung Quốc
phải bảo hộ bản quyền. Trung Quốc là kẻ ăn cắp bản quyền khổng lồ nhất thế giới.
Cơ chế Mỹ sinh ra tầng lớp người giàu như Bill Gate,
là giàu nhờ phát minh sáng chế tiên phong, đưa lại tiến bộ công nghệ vượt trội,
làm cho nước Mỹ hùng cường.
Còn cơ chế nước ta đẻ ra lớp người giàu có rất khác
biệt. Họ là những nhà Tư Bản ký sinh trên những lỗ hổng của cơ chế .
Đó là bởi vì chuyểntừ cơ chế tập trung quan liêu
sang cơ chế thị trường cho chúng ta một cơ chế thị trường không hoàn thiện, thậm
chí có lỗi. Cơ chế không hoàn thiện thì đẻ ra sản phẩm không hoàn thiện.
*
Phan
Văn Thắng: Ông có thể cho biết nhận xét của mình về người giàu ở
Việt Nam hiện nay?
TS
Nguyễn Ngọc Chu: Theo tôi, có thể khắc họa ngắn
gọn tầng lớp giàu có ở Việt Nam theo mấy đặc điểm sau đây.
Giàu
lên từ thương mại và dịch vụ
Hầu hết những người giàu ở Việt Nam hiện nay đều thuộc
về lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Chưa nhìn thấy người giàu có kếch sù do nhờ
sản xuất công nghiệp.
Những người giàu có nhất ở Việt Nam hiện nay đều nhờ
vào buôn bán đất đai, kinh doanh bất động sản, dịch vụ bất động sản. Họ giàu
lên nhờ sở hữu toàn dân.
Chưa có ai giàu có kếch sù nhờ sáng chế khoa học
công nghệ và đây là điều rất buồn. Nếu không có sáng chế tiên phong thì không
thể trở thành cường quốc.
Giàu
lên từ tham nhũng
Tầng lớp này rất đông. Là những người có chức có quyền.
Bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước. Đáng kể là từ cấp huyện, cấp phường trở
lên. Chức quyền đưa lại cho họ đặc quyền tham nhũng. Chức quyền càng cao thì
càng giàu có.Đây là tầng lớp người giàu mà họ càng giàu có thì đất nước càng kiệt
quệ.
Giàu
lên nhờ đút lót và lợi dụng cơ chế
Đây là tầng lớp nhờ đút lót mà trở nên giàu có. Họ lợi
dụng cơ chế, đút lót cho các kẻ tham nhũng để có được các dự án, các hợp đồng…
và thậm chí cả đút lót để có chức có quyền. Sự giàu có của họ không mang lại sự
cường thịnh cho đất nước mà ngược lại.
Tóm lại, những người giàu ở Việt Nam hiện nay đều
bám vào nhà nước và do cơ chế nhà nước đẻ ra. Họ là sản phẩm của cơ chế nhà nước.
Phải đến một ngày xuất hiện tầng lớp người giàu nhờ
vào phát minh sáng chế tiên phong thì đất nước mới thoát khỏi tụt hậu. Nhưng muốn
có lớp người giàu có này thì bắt buộc phải thay đổi cơ chế.
*
Phan
Văn Thắng: Còn người nghèo, hình như cũng càng ngày càng đông.
Cơ hội bình đẳng chính trị, văn hóa, và cả pháp lý nữa hình như cũng mong manh
hơn trước đối với họ. Tại sao vậy, thưa ông?
TS
Nguyễn Ngọc Chu: Nếu cất công đi vào các vùng
nông thôn, miền núi, thì chúng ta sẽ thấy đồng bào ta còn rất nghèo, không đủ
ăn đủ mặc. Ngay cả ở hai thành phố lớn như Hà Nội, HCM cũng còn rất nhiều cuộc
đời cơ cực.
Một điều chắc chắn là sự cách biệt giữa nghèo và
giàu ngày càng gia tăng. Nhưng điểm mấu chốt nằm ở sự không công bằng. Cụ Hồ
nói: ‘Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng’.
Lấy thí dụ, một thực tế hiện hiện thời nay, là các vụ
kiện ở Việt Nam có lẽ đến hơn 90% là phải chạy quyền lực hay chạy tiền và có thể
cả hai. Những người nghèo thì làm gì có tiền và có quyền lực?
Đến như đồng bào Thủ Thiêm, cả hàng trăm hộ bị cưỡng
chiếm đất đai vô pháp, khiếu kiện tập thể chứ không phải đơn lẻ ròng rã 20 năm
trời mà chưa lấy lại được công bằng, thì làm sao mà nói tới công bằng chân
chính cho số đông người nghèo.
Hay ngay chính ở giữa thủ đô Hà Nội, có thế lực như
VTV mà phóng viên còn bị đe dọa giết cả nhà, tưởng là giúp cho bà con chợ Long
Biên thoát nạn bảo kê, không ngờ lại đẩy họ thêm vào vòng nguy hiểm đến có thể
phải bỏ cả nơi kiếm sống.
Nêu ra hai thí dụ trên để thấy công bằng và công lý
còn là vấn đề nhức nhối cho xã hội và đặc biệt là mong manh cho các thân phận
nghèo.
Còn xa hơn, nếu nhìn qua biên giới, thì thân phận
người Việt, giàu hay nghèo, cũng chỉ được xếp vào hàng thứ cấp.
Những điều trên đây không phải là cách nhìn tiêu cực.
Chỉ khi chúng ta dám nhìn vào các khuyết tật của chính mình thì mới có cơ may
hoàn thiện, loại bỏ các khuyết tật đó. Một chiếc điện thoại cầm tay hay một chiếc
xe hơi hạng sang vừa mới ra đời, người tiêu dùng thấy hoàn hảo, không chê
trách. Vậy mà nhà sản xuất đã lên khuôn mẫu mã đời sau hoàn hảo hơn, chuẩn bị
xuất xưởng ra thị trường.
Quy luật của Tạo hóa là không ngừng cạnh tranh và
không ngừng tự tối ưu. Chúng ta là một thành phần của Tạo hóa. Chỉ có không ngừng
tự hoàn thiện mới không bị đào thải khỏi cuộc cạnh tranh.
Khi hiểu được quy luật, chúng ta cảm ơn mọi sự chỉ
trích.
*
Phan
Văn Thắng: Tôi nghĩ là câu chuyện giàu – nghèo ở nước ta vẫn
còn rất dài. Tôi hy vọng câu chuyện này sẽ được giải mã bởi nhiều người. Cảm ơn
ông về cuộc trao đổi hôm nay.
No comments:
Post a Comment