Tội
danh khủng bố ở Việt Nam khác biệt ra sao so với quốc tế?
Jun 29, 2023
https://www.luatkhoa.com/2023/06/toi-danh-khung-bo-o-viet-nam-khac-biet-ra-sao-so-voi-quoc-te/
Khủng bố chống chính quyền nhân dân là một sự “sáng
tạo” để phù hợp với tình hình Việt Nam.
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w2000/format/webp/2023/06/kh-ng-b-.jpg
Đồ họa: Tùy Phong/ Luật Khoa.
*
Những đồn đoán, quan sát của giới bình luận chính trị
Việt Nam cuối cùng đã được xác nhận: Bộ Công an quyết
định tiến hành điều tra và khởi tố các nghi phạm bị bắt trong vụ việc ở Tây
Nguyên với tổng cộng bốn nhóm tội danh, bao gồm “khủng bố nhằm chống chính quyền
nhân dân”; “không tố giác tội phạm”; “che giấu tội phạm” và “tổ chức, môi giới
cho người khác xuất nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép”. [1]
Trong đó, việc khởi tố tội danh “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân
dân” là chính yếu, với 75 bị can (ở thời điểm viết).
Vậy tội danh khủng bố tại Việt Nam có những đặc trưng cơ bản nào? Khi
phân tích về tội danh này trong sự tương quan giữa Việt Nam với quốc tế chúng
ta thấy được điều gì?
Phân tích cơ bản về tội
danh khủng bố ở Việt Nam
Để hiểu về các quy định pháp lý liên quan đến tội danh khủng bố ở Việt
Nam, chúng ta cần biết về hai văn bản riêng biệt.
Một là Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để hiểu về cấu
thành tội danh và cách định tội danh.
Hai là Luật
Phòng, chống khủng bố năm 2013 để tìm định nghĩa về khái niệm “khủng bố”
hay “tài trợ khủng bố”, cách diễn giải các hành vi có thể được liệt kê là khủng
bố, nguyên tắc chống khủng bố, cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên
quan. [2]
Về mặt định nghĩa, khái niệm khủng bố của Việt Nam khá rộng. Trong Luật
Phòng, chống khủng bố, khái niệm khủng bố được xác định là một nhóm các hành vi
nhằm (1) chống chính quyền nhân dân, (2) ép buộc chính quyền nhân dân, tổ chức
nước ngoài, tổ chức quốc tế, gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc (3) gây ra tình trạng hoảng loạn trong công
chúng.
Như vậy, các hành vi dù không được xác định là chống chính quyền nhân dân
hoặc tạo sức ép lên quan hệ quốc tế nhưng gây ra tình trạng hoảng loạn trong
công chúng cũng sẽ được xem là khủng bố.
Cách tiếp cận này rất rộng và hầu như bao quát hết mọi khả năng có thể
nghĩ đến trong các vấn đề liên quan đến tội danh khủng bố nói chung.
Về các nhóm hành vi cụ thể, chúng ta có thể xem xét bảng dưới đây để dễ
hình dung và kết nối:
Để tiếp cận bảng thống kê các nhóm hành vi cụ thể trên, chúng ta cần nhớ
rằng sáu nhóm hành vi chính không nhất thiết phải đi cùng nhau và không nhất
thiết phải nhằm vào cả ba mục tiêu khủng bố cụ thể.
Ví dụ, chúng ta có thể nối hành vi (1) (tức xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
tự do thân thể hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, uy hiếp tinh thần của người khác)
với mục tiêu (C) (tức gây ra tình trạng hoảng loạn trong công chúng); hoặc
hành vi (5) (tức thành lập, tham gia tổ chức, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện
đối tượng) với mục tiêu (A) (tức chống chính quyền nhân dân) v.v. Tất
cả đều sẽ được xác định là nằm trong nhóm hành vi khủng bố nói chung.
Với cách hiểu này, Bộ luật Hình sự hiện hành chia các nhóm hành vi và cấu
thành thành ba tội danh ở ba điều:
1.
Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều
113
Bộ luật Hình sự) với mức hình phạt cao nhất là tử hình;
2.
Tội khủng bố (Điều 299
Bộ luật Hình sự) với mức hình phạt cao nhất là tử hình. [3] [4]
3.
Tội tài trợ khủng bố (Điều 300
Bộ luật Hình sự). [5]
Trong trường hợp tại Đắk Lắk, với việc đã xác định mục tiêu của các bị
can là chống chính quyền nhân dân (tức mục tiêu A trong bảng) thì tất cả
các hành vi liên quan sẽ được gọi là khủng bố nhằm chống chính quyền nhân
dân.
Khả năng có hình phạt
tử hình?
Với tính chất nghiêm trọng trên thực tế (nhiều cán bộ công an, công chức,
dân thường thương vong) và cách mà Bộ Công an mô tả vụ việc, kết hợp với việc
điều tra và khởi tố theo Điều 113 thì khả năng áp dụng hình phạt tử hình cho một
số bị cáo là rất có cơ sở.
Hình phạt cho hành vi trên được ghi nhận rõ tại khoản 1, Điều 113: “Người
nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức
hoặc người khác [...] thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình.”
Pháp luật Việt Nam và
quốc tế quy định về vấn đề này có gì khác nhau?
Trong phạm vi của bài viết này, sẽ rất khó để chúng ta so sánh một cách
toàn diện điểm giống và khác giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về
tinh thần chung, định nghĩa pháp lý hay thực tiễn áp dụng. Đó là chưa kể đến việc
mỗi lĩnh vực phòng chống khủng bố khác nhau (trên không, trên biển, trên cạn,
trên không gian mạng, v.v.) đều có những thảo luận và tranh cãi quốc tế rất đặc
trưng.
Tuy nhiên, nếu giới hạn các thảo luận pháp lý của chúng ta lại trong phạm
vi khái niệm và triết lý thì có thể nói pháp luật Việt Nam không quá khác biệt
so với pháp luật quốc tế.
Ví dụ, nếu chúng ta cân nhắc Điều 2 của Công
ước Quốc tế về Trấn áp hành vi tài trợ khủng bố (1999), bất kỳ hành vi nào
gây ra hoặc có mục đích gây ra tổn hại tính mạng lẫn thân thể của một thường
dân hoặc bất kỳ cá nhân nào không tham gia trực tiếp vào các tình huống xung đột
vũ trang quốc tế (ý đang chỉ combatant - người tham chiến), đều có thể được xem
là hành vi khủng bố. [6] Thêm vào đó, Công ước cũng ghi nhận rõ là mục tiêu của
việc thực hiện các hành vi này (dù là về bản chất đã được chứng minh hay tình
huống chung cho thấy) nhằm gây hoang mang, đe dọa quần chúng hoặc gây sức ép
lên một chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế để làm hay không làm một điều gì đó.
Ngoài ra, theo ghi nhận của tác giả Marcello Di Filippo trong tác phẩm Research
handbook on international law and terrorism (2020), có vài bản dự thảo về
chống khủng bố vẫn còn đang bỏ ngỏ tại ngưỡng cửa của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
vì bất đồng liên quan đến các diễn ngôn và cài cắm chính trị (ví dụ như lo ngại
việc chống khủng bố có thể được sử dụng để lý giải cho đàn áp chính trị) vào hoạt
động phòng chống khủng bố toàn cầu. [7]
Dù vậy, xu thế chung của các chính phủ (bất kể Hoa Kỳ, châu Âu, Nga,
Trung Quốc, hay Việt Nam, v.v.) đều là đồng lòng chống khủng bố nói chung. Đây
là mặt trận quốc tế ít gặp trở ngại nhất nếu so sánh tương quan với các ngành
và lĩnh vực khác trong pháp luật quốc tế.
Để hiểu về mức độ học tập và biến tấu của pháp luật Việt Nam từ các quy định
quốc tế liên quan đến phòng, chống khủng bố, người viết cho rằng độc giả có thể
hiểu và theo dõi đơn giản qua bảng dưới đây: https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1000/2023/06/Copy-of--Editing--T-i-danh-_Kh-ng-b-__-Nh-ng--i-u-b-n-c-n-bi-t---Vi-t-Nam--v--th--gi-i--2.jpg
Như vậy, từ phần hành vi cho đến mục tiêu của hành vi, nhà nước Việt Nam
đều học tập và diễn giải phần nào từ các quy định và thảo luận chung của cộng đồng
quốc tế. Điểm sáng tạo duy nhất được cho là để phù hợp với tình hình Việt Nam
là mục tiêu khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân.
=================================================
Từ
sự kiện ở Tây Nguyên nghĩ về chức năng xã hội của giới trí thức
Tham gia cải biến xã hội, chống bất công, chứ không phải vận hành xung
quanh quỹ đạo của giai cấp thống trị.
Huỳnh
Công Đương - Luật Khoa tạp chí
.
Người
Kinh: Từ đồng chí cộng sản trở thành thế lực thực dân nội địa ở Tây Nguyên
Quyết tâm khai hóa bằng sự thượng đẳng và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Vincente
Nguyen - Luật Khoa tạp chí
.
Vấn
đề tôn giáo tại Tây Nguyên: Chính quyền càng can thiệp thô bạo càng không có lối
thoát
Các sắc tộc bản địa không chấp nhận sự kiểm soát của người Kinh đối với
Tây Nguyên.
No comments:
Post a Comment